TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Điều 168. Tội cướp tài sản

  1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

h) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

c) Làm chết người;

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Định nghĩa: Cướp tài sản là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm đoạt tài sản.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Người phạm tội cướp tài sản phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

  1. Các dấu hiệu về mặt khách thể của tội phạm

Đối với tội cướp tài sản, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, tội cướp tài sản là tội phạm cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, nhưng khách thể bị xâm phạm trước quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản (dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản), nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội cướp tài sản không thể xâm phạm đến quan hệ tài sản được. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản, nếu chỉ xâm phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ánh đầy đủ bản chất của tội cướp tài sản, đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với các tội khác xâm phạm sở hữu và các tội mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản.

Tuy nhiên, do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, trong đó quan hệ nhân thân lại quan trọng hơn quan hệ sở hữu nên có ý kiến cho rằng, không nên xếp tội cướp tài sản trong Chương “các tội xâm phạm sở hữu” mà nên xếp vào Chương “các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”. Việc nhà làm luật xếp tội cướp tài sản vào Chương các tội xâm phạm sở hữu là căn cứ vào mục đích cuối cùng của người phạm tội là nhằm chiếm đoạt tài sản, còn việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người chỉ là phương tiện để đạt mục đích.

Cách lý giải này có nhiều yếu tố hợp lý, nhưng cũng chưa lý giải được vì sao tội tham ô lại xếp vào Mục A “các tội phạm về tham nhũng” trong Chương “các tội phạm chức vụ”, mặc dù mục đích cuối cùng của người phạm tội cũng là nhằm chiếm đoạt tài sản? Trong khi đó, xét về góc độ khoa học luật hình sự khi chia khách thể thành khách thể loại là nhằm mục đích sắp xếp các chương trong Bộ luật hình sự. Trên thế giới hiện nay, có nước xếp tội cướp tài sản trong Chương “các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” nhưng cũng có nước xếp vào Chương “các tội xâm phạm sở hữu” như Việt Nam. Việc nhà làm luật xếp tội cướp tài sản vào chương này hay chương khác chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học lập pháp, chứ không có ý nghĩa trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội cướp tài sản.

Do tội cướp tài sản cùng lúc xâm phạm đến hai khách thể, nên trong cùng một vụ án có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại bị xâm phạm đến cả tài sản, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự.

  1. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

c) Hành vi dùng vũ lực

Hành vi dùng vũ lực là hành vi (hành động) mà người phạm tội đã thực hiện, tác động vào cơ thể của nạn nhân như: đấm, đá, bóp cổ, trói, bắn, đâm, chém… Hay có thể nói một cách khái quát là hành vi dùng sức mạnh vật chất nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi dùng vũ lực có thể làm cho nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại đến sức khỏe hoặc bị chết, nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích đáng kể (không có tỷ lệ thương tật). Ví dụ: Lê Xuân H dùng tay bóp cổ bà M để chiếm đoạt chiếc dây chuyền vàng và một đôi hoa tai của bà M trong lúc bà M đang ngủ. Tuy bà M bị H bóp cổ nhưng không để lại thương tích, cũng không ảnh hưởng đến sức khỏe và không có tỷ lệ thương tật, nhưng hành vi của H vẫn được coi là hành vi dùng vũ lực.

Nói chung, người phạm tội dùng vũ lực chủ yếu đối với người có trách nhiệm về tài sản. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp người phạm tội cho rằng họ cản trở việc cướp tài sản. Người có trách nhiệm về tài sản có thể có mặt tại nơi xảy ra vụ cướp, nhưng cũng có thể không có mặt ở nơi xảy ra vụ cướp tài sản, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản.

Ví dụ: Đặng Hải Q, Nguyễn Lâm B và Lưu Ngọc C bàn bạc vào kho của Công ty vật tư thương mại khống chế thủ kho để chiếm đoạt hàng hóa trong kho. Khi đi Q mang theo súng K54, B mang theo một dao găm, còn C lái xe lam để chuyên chở tài sản chiếm đoạt được. Khi đến kho, chúng không gặp thủ kho nên đã phá khóa vào kho khuân tài sản ra xe lam do C lái. Trong khi chúng đang khuân tài sản lên xe thì thấy có hai người đi xe máy qua, sợ bị phát hiện, Q đã dùng súng bắn về phía hai người đi xe máy làm hai người này sợ hãi phải quay xe chạy. Sau đó chúng tiếp tục lấy thêm một số tài sản rồi tẩu thoát. Trong trường hợp này, tuy B, Q và C không trực tiếp dùng vũ lực với người có trách nhiệm về tài sản và người có trách nhiệm về tài sản cũng không có ở nơi xảy ra vụ án, nhưng hành vi của các bị cáo vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản vì chúng đã có hành vi dùng vũ lực với người mà chúng cho rằng cản trở việc thực hiện tội phạm của chúng.

Đối với những vụ cướp có nhiều người cùng tham gia (đồng phạm), không nhất thiết tất cả những người tham gia đều phải dùng vũ lực, mà chỉ cần một hoặc một số người dùng vũ lực, còn những người khác có thể không dùng vũ lực hoặc chỉ đe dọa dùng vũ lực, nhưng tất cả những người cùng tham gia đều bị coi là dùng vũ lực. Ví dụ: Đào Văn T, Trần Văn H và Bùi Công D rủ nhau chặn đường để cướp xe máy. Khi anh Đinh Văn K là người làm nghề xe thồ (xe ôm) đi qua, H và D đến giả vờ hỏi anh K, còn T dùng thanh sắt mang theo đánh mạnh vào đầu anh K rồi cả bọn cướp xe bỏ chạy. Mặc dù chỉ một mình T có hành vi dùng vũ lực, nhưng hành vi của H và D cũng bị coi là hành vi dùng vũ lực, cả T, H và D đều phạm tội cướp với vai trò cùng là người thực hành. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, gặp phải trường hợp này, nhiều người cho rằng chỉ có T là người thực hành còn D và H chỉ là người giúp sức.

b) Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc

Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe dọa người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay. Ví dụ: dí dao vào cổ, dí súng vào bụng yêu cầu người bị hại giao ngay tài sản nếu không sẽ bị đâm, bị bắn ngay lập tức.

Đe dọa dùng vũ lực là chưa dùng vũ lực, nếu người phạm tội vừa đe dọa, vừa dùng vũ lực, mặc dù việc dùng vũ lực không mạnh mẽ bằng vũ lực mà người phạm tội đe dọa người bị hại, nhưng vẫn bị coi là đã dùng vũ lực. Ví dụ: Nguyễn Văn L gặp chị Trần Thị H trên một đoạn đường vắng, L lao ra chặn chị H lại, túm cổ áo chị H, đồng thời rút dao trong người ra dí vào cổ buộc chị H phải cởi dây chuyền, hoa tai đưa cho L. Hành vi của L phải coi là hành vi dùng vũ lực chứ không phải là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc.

Việc xác định thế nào là đe dọa dùng vũ lực không khó bằng việc xác định thế nào là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Đây là dấu hiệu rất quan trọng để phân biệt tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, nếu đe dọa dùng vũ lực nhưng không ngay tức khắc thì đó là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Ngay tức khắc là ngay lập tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản cho người phạm tội. Khả năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.

Tuy nhiên, vì vũ lực chưa xảy ra nên việc đánh giá người phạm tội có dùng vũ lực hay không trong trường hợp người bị hại không giao tài sản lại là một vấn đề phức tạp. Thông thường người phạm tội không bao giờ nhận là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để người phạm tội lấy tài sản. Vì vậy để xác định trường hợp người phạm tội đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay không, ngoài lời khai của người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào các tình tiết khác của vụ án như: không gian, thời gian, hoàn cảnh lúc xảy ra sự việc; công cụ, phương tiện phạm tội người phạm tội sử dụng… Ví dụ: trong đêm tối, trên một đoạn đường vắng, một người dùng dao dí vào cổ người khác, yêu cầu người này phải giao tài sản cho mình, nếu không sẽ giết. Ngay lúc đó có tổ tuần tra phát hiện nên bắt được người phạm tội. Trong trường hợp dù người phạm tội có khai rằng, chỉ có ý định dọa chứ không có ý định dùng vũ lực với người bị hại thì cũng không có căn cứ để tin lời khai của người phạm tội là đúng, mà trường hợp này phải xác định người phạm tội đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc.

c) Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được

Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là hành vi không phải dùng vũ lực, cũng không phải đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng lại làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Để xác định hành vi này, trước hết phải xuất phát từ phía người bị hại phải là người bị tấn công, nhưng không phải bị tấn công bởi hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc mà bị tấn công bởi hành vi khác. Như vậy, hành vi khác mà nhà làm luật quy định trong cấu thành trước hết nó phải là hành vi tấn công người bị hại, mức độ tấn công tới mức người bị hại không thể chống cự được.

Ví dụ: A bỏ thuốc ngủ vào cốc nước để B uống, sau khi uống nước, B đã ngủ say không biết gì, do đó A mới chiếm được tài sản của B. Thực tiễn xét xử, không chỉ xảy ra trường hợp người phạm tội cho người hại uống thuốc ngủ, mà nhiều trường hợp người phạm tội dùng những thủ đoạn nguy hiểm như xịt ete, cho người bị hại uống thuốc mê, thậm chí cả thuốc độc làm cho người bị hại không còn khả năng chống cự nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp người phạm tội tìm cách chuốc rượu cho người bị hại uống thật say để chiếm đoạt tài sản cũng cần phải xác định hành vi này là hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được.

Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, các văn bản pháp luật hình sự, cũng như các hướng dẫn về tội cướp tài sản (tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân) chỉ quy định cướp là dùng bạo lực để chiếm mà không quy định trường hợp đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Tại Điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21-10-1970 và tại Điều 3 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21-10-1970 đều chỉ quy định “kẻ nào dùng bạo lực để chiếm đoạt…”.

Do thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người phạm tội không dùng bạo lực (vũ lực), mà dùng những thủ đoạn cũng rất nguy hiểm nhằm chiếm đoạt tài sản, nếu chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội cưỡng đoạt hoặc tội trộm cắp thì không tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nên khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985, nhà làm luật đã đưa vào cấu thành của tội cướp (cướp tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân) một số hành vi là dấu hiệu khách quan của cấu thành, như: đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Bộ luật hình sự năm 1999 và năm 2015 vẫn giữ nội dung này, chỉ hoán vị từ “dùng ngay tức khắc vũ lực” thành “dùng vũ lực ngay tức khắc”.

Theo quan niệm truyền thống thì tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức, không cần có hậu quả xảy ra là tội phạm đã hoàn thành. Quan niệm này chỉ đúng đối với trường hợp tội cướp tài sản được thực hiện bằng hành vi dùng vũ lực hoặc bằng hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, nhưng đối với trường hợp bằng hành vi khác thì tội cướp tài sản không hẳn là tội phạm có cấu thành hình thức.

Ví dụ: A muốn chiếm đoạt tài sản của B bằng cách bỏ thuốc mê vào trong cốc nước cho B uống với ý thức sau khi uống, B sẽ bị mê không biết gì nữa, A sẽ gỡ dây chuyền vàng, nhẫn vàng, đồng hồ của B; nhưng B phát hiện trong nước có mùi lạ nên không uống, do đó A không chiếm đoạt được tài sản của B. Trong trường hợp này, A đã thực hiện hết các hành vi khách quan của cấu thành, nhưng hậu quả không xảy ra ngoài ý thức chủ quan của A.

Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, nếu coi trường hợp phạm tội này là tội phạm đã hoàn thành rõ ràng không phù hợp với lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm. Ở một số nước, trong đó có những nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây, không coi hành vi dùng thuốc mê, thuốc ngủ… làm cho người bị hại lâm vào tình trạng không chống cự được để chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội cướp tài sản mà coi hành vi này là tội trộm cắp với thủ đoạn xảo quyệt hoặc nguy hiểm. Nếu coi hành vi này là hành vi phạm tội trộm cắp tài sản thì rõ ràng trường hợp phạm tội của A đối với B vừa nêu trên phải coi là phạm tội chưa đạt.

Nếu như trước đây, việc xác định tội phạm chưa đạt hay tội phạm đã hoàn thành không ảnh hưởng nhiều lắm đến việc quyết định hình phạt, vì theo khoản 3 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng”. Nhưng theo quy định tại Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, việc xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Theo khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015: “Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”.

Việc nhà làm luật đưa vào cấu thành tội cướp tài sản dấu hiệu “có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm đoạt tài sản” đã làm cho việc xác định thời điểm hoàn thành của tội cướp có những quan điểm trái ngược nhau.

Có ý kiến cho rằng, dù có đưa thêm vào trong cấu thành dấu hiệu mới cũng không làm thay đổi bản chất của tội cướp tài sản, nên tội cướp tài sản không có giai đoạn phạm tội chưa đạt, mà chỉ có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, do nhà làm luật thêm vào cấu thành tội cướp dấu hiệu “có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được nhằm chiếm đoạt tài sản” nên tội cướp tài sản vừa là tội có cấu thành hình thức, vừa là tội có cấu thành vật chất. Nếu người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc thì tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức; còn nếu người phạm tội có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản thì tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất và như vậy tội cướp tài sản có giai đoạn phạm tội chưa đạt, đó là trong trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành nhưng vì lý do khách quan nên tội phạm vẫn không xảy ra theo ý muốn của người phạm tội.

d) Hậu quả của tội phạm

Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.

Do khách thể của tội cướp là hai quan hệ xã hội (quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân) nên tội cướp tài sản được gọi là tội ghép và do đó hậu quả của tội cướp tài là thiệt hại về tài sản nhưng cũng có thể là những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Ví dụ: A dùng dao đâm B bị thương để cướp chiếc xe máy của B, trong trường hợp này, hậu quả do A gây ra cho B vừa là tài sản (chiếc xe máy) vừa là sức khỏe (B bị thương tích). Cũng có trường hợp thiệt hại gây ra vừa là tài sản vừa là danh dự, nhân phẩm. Ví dụ: A có ý định chiếm đoạt chiếc dây chuyền vàng của chị H, A đã nấp trong bụi cây chờ chị H đi qua, A lao ra ôm vật chị H và giật chiếc dây chuyền vàng trên cổ của chị H. Trong lúc vật lộn, A đã xé rách áo ngoài, áo lót của chị H, làm chị H phải ở trần chạy về trước sự chứng kiến của nhiều người.

Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về tính mạng thì cần phân biệt hai trường hợp: trường hợp người phạm tội giết người nhằm chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội giết người và tội cướp tài sản, nhưng nếu người phạm tội không có ý định giết người mà chỉ có ý định cướp tài sản nhưng chẳng may người bị hại bị chết thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết làm chết người. Tuy nhiên, nếu sau khi đã cướp tài sản bị đuổi bắt mà người phạm tội giết người để tẩu thoát thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người.

Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về sức khỏe thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nếu người bị hại có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên.

Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về nhân phẩm, danh dự mà hành vi xâm phạm của người phạm tội không có liên quan gì đến mục đích chiếm đoạt thì ngoài tội cướp tài sản, người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ứng với hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm. Ví dụ: A, B, C bàn bạc đón đường, nếu ai đi xe máy qua sẽ cướp. Khi thấy chị L đi xe máy qua, chúng chặn xe rút dao găm ra để đe dọa buộc chị L phải giao xe cho chúng. Sau khi cướp được xe, và C lấy xe chở nhau bỏ chạy, còn A ở lại dùng dao khống chế chị L để B và C chạy thoát. Trong khi khống chế chị L A nảy ý định giao cấu với chị L nên A buộc chị L phải cho A giao cấu nếu không A sẽ giết. Do quá sợ hãi nên chị L buộc phải để cho A giao cấu.

  1. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là tội cướp tài sản. Như vậy, ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải có trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể tự vệ được. Nếu có hành vi tấn công nhưng động cơ và mục đích khác chứ không nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau đó người bị tấn công bỏ chạy, để lại tài sản và người có hành vi tấn công lấy tài sản đó thì không phải là tội cướp tài sản mà tùy vào trường hợp cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi tấn công theo cáo tội tương ứng. Riêng hành vi chiếm đoạt của người có hành vi tấn công có thể là hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Thực tiễn xét xử cho thấy hầu hết những trường hợp khi tấn công, người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản mà vì động cơ mục đích khác như để trả thù, nhưng sau khi đã thực hiện hành vi tấn công, người bị tấn công bỏ chạy để lại tài sản, người có hành vi tấn công lấy tài sản đó, đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội cướp tài sản trong trường hợp này rõ ràng là không chính xác.

Ví dụ: khoảng 21 giờ ngày 15-10-1996, trên đường từ thôn Trung Đức, xã Hợp Đức về xã Hòa Nghĩa, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, Phạm Văn Hiếu gặp Đặng Bá Hùng; Hiếu rủ Hùng về nhà Hiếu chơi, Hùng đồng ý. Hiếu chở Hùng bằng xe đạp của mình, khi đến ngang khu vực kho lương thực xã Hòa Nghĩa, theo lời khai của Hùng và Hiếu thì do đường xấu nên Hiếu vấp phải ổ gà làm cho xe đạp bị đổ, Hùng ngồi sau bị ngã. Cùng lúc đó có một thanh niên mà sau này Hiếu và Hùng mới biết là Nguyễn Văn Mạnh người cùng xóm, đi xe đạp mini Nhật từ phía sau đâm vào xe của Hiếu. Hùng ở phía sau túm tóc và đánh Mạnh, Hiếu thấy vậy cũng lao vào đấm đá Mạnh làm Mạnh lao xuống bờ ruộng, Hùng lao theo đấm đá và dùng tay bóp cổ Mạnh. Anh Mạnh chống cự quyết liệt và hô “Cướp! Cướp!”. Hiếu thấy xe của Mạnh để trên đường nên đã lấy đạp đi luôn, còn Hùng ở lại vẫn đánh nhau với Mạnh và bị Mạnh dùng gạch đập vào đầu làm Hùng bị choáng. Nhân dân trong làng nghe tiếng hô cướp liền chạy ra đưa cả hai đi cấp cứu ở trạm xá. Sau khi điều trị, kết quả giám định pháp y kết luận anh Mạnh bị giảm sức khỏe 2%. Về phần Hiếu, sau khi lấy được xe đạp của anh Mạnh, Hiếu đem đến chòi cá cách nơi xảy ra sự việc khoảng 1km cất giấu và ngủ luôn ở chòi cá. Sáng hôm sau nghe tin Hùng bị bắt, Hiếu đã ra tự thú và nộp lại chiếc xe đạp để trả lại cho anh Mạnh; gia đình Hiếu đã bồi thường cho anh Mạnh 500.000 đồng tiền thuốc điều trị vết thương.

Tại bản án sơ thẩm số 19 ngày 30-1-1997, Tòa án nhân dân thành phố H áp dụng điểm c khoản 2 Điều 151; điểm h khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 43 Bộ luật hình sự năm 1985, phạt Đặng Bá Hùng 4 năm tù, Phạm Văn Hiếu bị phạt 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 4 năm, đều về tội cướp tài sản của công dân.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Đặng Bá Hùng kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh cho mình vì Hùng cho rằng y không có ý định chiếm đoạt chiếc xe đạp của anh Mạnh mà việc này là ý đồ riêng của Hiếu.

Tại bản án phúc thẩm số 1007 ngày 28-6-1997, Tòa án phúc thẩm giảm hình phạt cho Đặng Bá Hùng xuống còn 3 năm tù và cho hưởng án treo về tội cướp tài sản của công dân.

Các bị cáo đánh anh Mạnh không phải nhằm mục đích lấy chiếc xe đạp của anh mà là vì anh Mạnh đụng xe vào xe của các bị cáo. “Do đường xấu nên Hiếu và Hùng dắt xe đi bộ. Cùng lúc đó anh Nguyễn Văn Mạnh đi xe đạp mini Nhật từ phía sau đến, bánh trước xe đạp của anh Mạnh va vào bánh sau xe đạp của Hiếu. Từ việc này Hùng đã đánh anh Mạnh, Hiếu cũng xông vào đánh anh Mạnh.” Như vậy cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều xác định hành vi dùng vũ lực của các bị cáo không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người bị tấn công, do đó cũng không có căn cứ để xác định hành vi dùng vũ lực của các bị cáo là hành vi thuộc dấu hiệu khách quan của cấu thành tội cướp. Việc Hiếu lấy xe của anh Mạnh là do Hiếu lợi dụng lúc anh Mạnh đang đánh nhau với Hùng không thể giữ được xe, nên Hiếu mới lấy đi và khi phát hiện thấy Hiếu đã lấy xe của mình, anh Mạnh hô cướp cũng là lẽ thường tình. Hành vi của Hiếu chỉ là hành vi thái quá của một người cùng gây thương tích cho anh Mạnh và hành vi này không cấu thành tội cướp tài sản của công dân, mà là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với Đặng Bá Hùng, sau khi Hiếu đã lấy xe đạp của anh Mạnh, Hùng còn tiếp tục tấn công anh Mạnh để Hiếu chạy thoát, thì cũng không vì thế mà cho rằng Hùng đồng phạm với Hiếu về tội công nhiên chiếm đoạt với vai trò giúp sức, vì giúp cho kẻ phạm tội tẩu thoát không có nghĩa là đồng phạm với họ về hành vi phạm tội mà họ thực hiện, vì ý định chiếm đoạt của Hiếu cũng như hành vi chiếm đoạt của Hiếu, Hùng chỉ chứng kiến mà không được bàn bạc từ trước.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Đặng Bá Hùng và Phạm Văn Hiếu về tội cướp tài sản rõ ràng là không chính xác, không đúng với ý thức chủ quan của người phạm tội.

Đối với trường hợp sau khi giết người, người phạm tội mới thấy tài sản của nạn nhân nên đã chiếm đoạt tài sản đó, thực tiễn xét xử cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đều truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chiếm đoạt tài sản này là tội cướp tài sản. Ví dụ: Nguyễn Văn M ngoại tình với Lê Thị H là vợ của anh Đặng Văn N. M và H bàn bạc giết anh N để hai người được tự do “quan hệ” với nhau. Một hôm anh N đi làm về, M và H nấp ở bụi cây ven đường chờ sẵn, thấy N liền xông qua dùng dao găm đâm chết anh N. Hành động xong, H bỏ về nhà, còn M ở lại giấu xác nạn nhân nhằm trốn tránh pháp luật. Trong lúc giấu xác nạn nhân, M thấy trong túi anh N có 5 triệu đồng và một đồng hồ Seiko nên M đã chiếm đoạt số tài sản này của nạn nhân. Trong vụ án này, lúc đầu M chỉ có ý định giết nạn nhân, thấy nạn nhân có tài sản M mới nảy sinh ý định chiếm đoạt, do đó không thỏa mãn dấu hiệu chủ quan của cấu thành tội cướp tài sản.

Một số nước, trong đó có Liên Xô (cũ) coi hành vi chiếm đoạt tài sản của người đã chết là hành vi trộm cắp tài sản.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có nhiều trường hợp tuy lúc đầu người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã nảy sinh ý định chiếm đoạt và sau đó tiếp tục có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản, thì hành vi chiếm đoạt tài sản vẫn bị coi là hành vi phạm tội cướp tài sản. Khoa học luật hình sự coi trường hợp này là trường hợp “chuyển hóa” từ tội phạm này sang tội phạm khác. Ví dụ: Tuấn, Thảo và Hùng rủ nhau đến nhà anh Q để trộm cắp. Khi bọn chúng đang bê chiếc tivi ra khỏi nhà, bị anh Q phát hiện lao ra giằng lại chiếc tivi thì bị tên Hùng dùng dao găm đâm vào tay anh Q một nhát, sau đó chúng tiếp tục bê chiếc tivi bỏ chạy.

Như vậy, mục đích giữ lại tài sản sau khi đã chiếm đoạt được bằng cách dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có hành vi khác làm người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được cũng là cướp tài sản. Tuy nhiên thực tiễn xét xử, việc phân biệt thế nào là hành hung để tẩu thoát với hành hung để cố tình giữ lại tài sản trong một số trường hợp rất khó, vì nó xảy ra một cách đan xen liên tiếp nhau, nhất là đối với tài sản gọn nhẹ có thể bỏ túi được.

Theo quan niệm truyền thống và thực tiễn xét xử thì được coi là chuyển hóa từ tội phạm khác sang tội cướp tài sản nếu người phạm tội đã có tài sản trong tay, bị chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản giành giật lại tài sản mà người phạm tội cố tình dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để giữ bằng được tài sản đã chiếm được. Đối gọn nhẹ, người phạm tội có thể bỏ túi được, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết tài sản người phạm tội chiếm đoạt trước đó để ở đâu nhưng vẫn đuổi theo nhằm bắt người phạm tội, đồng thời lấy lại tài sản bị chiếm đoạt. Trong quá trình đuổi bắt, bị người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với người đuổi bắt thì không bị coi là chuyển hóa thành tội cướp tài sản, mà chỉ coi hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi hành hung để tẩu thoát.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, quan niệm và thực tiễn xét xử như vậy không phù hợp với lý luận về sự chuyển hóa, vì xét từ khía cạnh nào thì người phạm tội cũng không chịu bỏ lại tài sản để tẩu thoát, nên phải coi việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để tẩu thoát có mang theo tài sản là chuyển hóa thành tội cướp tài sản; chỉ coi là hành hung để tẩu thoát khi người phạm tội vứt bỏ lại tài sản, chỉ chạy thoát thân.

Trường hợp người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực vừa nhằm mục đích trả thù vừa nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì vẫn phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản, nếu hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại đến tính mạng người bị hại thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội giết người.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Cướp tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Theo quy định tại khoản 1 Điều 168, thì người phạm tội cướp tài sản không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 168 thì bị phạt từ 03 đến 10 năm tù. Khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự là sự cấu thành cơ bản của tội cướp tài sản, là tội phạm rất nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168, Tòa án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VIII Bộ luật hình sự (từ Điều 50 đến Điều 59). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội dùng vũ lực phải bị phạt nặng hơn người chỉ đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc;

– Người phạm tội dùng vũ lực gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 11% phải bị phạt nặng hơn người phạm tội không gây thương tích hoặc không gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm được tài sản.

  1. Cướp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình

a) Cướp tài sản có tổ chức

Phạm tội cướp tài sản có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc cướp tài sản, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 17 Bộ luật hình sự).

Trong vụ án cướp tài sản có tổ chức, cũng như trong các vụ án hình sự khác có tổ chức, tùy thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng định, hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả do hành vi thái quá đó gây ra chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự còn những người đồng phạm khác không phải chịu về việc “thái quá” đó. Như vậy, khi nghiên cứu tình trạng loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác đối với hành vi thái quá của người thực hành, chúng ta chỉ có thể nghiên cứu nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ đó xác định trách nhiệm hình sự của người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.

Hành vi thái quá của người thực hành là việc người thực hành tự ý thực hiện hành vi tội phạm mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Ví dụ: Trần Q A, Nguyễn Văn C, Bùi Quốc T, Bùi Quốc L vì thua bạc nên Bùi Quốc T bàn bạc với đồng bọn về nhà mình dọa mẹ của T để buộc mẹ của T phải đưa chìa khóa mở tủ lấy tiền tiếp tục đi đánh bạc, cả bọn đồng ý. Vì T và L là anh em và là con của bà M, nên chúng giao cho A và C trực tiếp thực hiện. Trước khi đi cả bọn thống nhất chỉ dọa bà M để bà đưa chìa khóa tủ chứ không được làm bất cứ điều gì gây đau đớn cho bà. T và L còn nói, nếu má tao có sao chúng mày đừng có trách. Sau khi đã bàn bạc thống nhất, vào lúc nửa đêm A và C lẻn vào nhà bà M, lợi dụng lúc bà M đang ngủ, A dùng tay chẹn vào cổ bà M, còn C dọa: “Chìa khóa tủ để ở đâu không đưa ngay chúng tao sẽ giết!”. Bị tấn công bất ngờ, bà M không kịp trở tay buộc phải đưa chùm chìa khóa cho C. Trong lúc C đang mở tủ để lục soát tìm tiền, thì A dùng một quả chanh nhét vào miệng bà M và lấy khăn bịt miệng bà M lại, nhưng vì bà M giãy giụa làm quả chanh trong miệng bật ra, đồng thời bà M kêu cứu. Sợ bị lộ, A vật bà M xuống rồi ngồi lên bụng bà, rồi dùng tay bóp cổ bà cho đến khi bà M không còn giãy giụa nữa y mới bỏ tay ra. C thấy A hành động như vậy, hỏi sao mày làm như vậy, thì A trả lời, bà ấy chỉ xỉu thôi không chết đâu mà sợ, cùng lúc này C đã lục tủ lấy được bọc tiền của bà M rồi cả hai bỏ chạy ra điểm hẹn với T và L. Thấy A và C tới, T hỏi ngay má tao có sao không, cả A và C đều trả lời không việc gì hết. T bảo L về nhà xem tình hình, còn T, A và C tiếp tục đi đánh bạc. Khi L về nhà thấy má mình bất động đã đưa đi bệnh viện cấp cứu, nhưng bà M đã chết. Trong ví dụ này, ngay từ khi bàn bạc phạm tội cướp tài sản, chúng thống nhất chỉ làm cho bà M sợ để bà đưa chìa khóa tủ, nhưng trong khi thực hiện tội phạm, A đã có hành vi thái quá làm cho bà M bị chết, vì vậy chỉ có A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, còn C, T L chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản.

Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi thái quá của người thực hành không chỉ đơn giản mà nó được thể hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: lúc đầu chỉ bàn cướp nhưng khi thực hiện lại giết người; lúc đầu chỉ bàn đánh cho một trận nhưng khi thực hiện lại lấy tài sản của người bị đánh. Chính vì tội phạm xảy ra muôn hình muôn vẻ nên khoa học luật hình sự chia hành vi thái quá ra làm hai loại chính: thái quá về chất lượng của hành vi và thái quá về số lượng của hành vi.

Cần chú ý rằng, khi đã xác định vụ án được thực hiện có tổ chức thì tất cả những người trong vụ án đều bị áp dụng tình tiết “phạm tội có tổ chức”. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với từng người còn tùy thuộc vào vai trò của họ trong vụ án như đã phân tích ở trên.

b) Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp

Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc cướp tài sản là nguồn sống chính cho mình.

Bộ luật hình sự coi trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và trong một số tội phạm quy định là tình tiết định khung hình phạt. Việc nhà làm luật coi trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng hoặc là tình tiết định khung hình phạt là một yêu cầu cần thiết do thực tiễn xét xử đặt ra.

Khi áp dụng tình tiết này, cần lưu ý rằng khái niệm chuyên nghiệp được hiểu ở nay không đồng nghĩa với khái niệm nghề nghiệp của một người, vì không thể coi phạm tội là một nghề kiếm sống, có tính chất chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể hiện ở chỗ tội phạm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần mà người phạm tội coi việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống. Ví dụ: Hoàng Văn N là một kẻ sống lang thang không nghề nghiệp, thường tụ tập một số người cùng cảnh ngộ như mình chuyên trộm, cướp để sinh sống. Tuy nhiên, không phải hành vi phạm tội nào cứ lặp đi, lặp lại nhiều lần đều coi là có tính chất chuyên nghiệp, mà chỉ những hành vi mà người phạm tội coi đó là phương tiện kiếm sống thì mới là có tính chất chuyên nghiệp. Ví dụ: Trần Văn Đ là học sinh lớp 12, bị kỷ luật đuổi học, Đ đã rủ Bùi Văn C dùng dao nhọn Thái Lan liên tiếp gây ra hai vụ cướp xe đạp trước cổng công viên. Hành vi của Đ và C chỉ bị coi là phạm tội nhiều lần chứ không bị coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và phạm tội nhiều lần đều giống nhau ở điểm, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần (từ hai lần trở lên), nhưng khác nhau là khi phạm tội nhiều lần, người phạm tội không lấy việc phạm tội là phương tiện kiếm sống và họ chỉ phạm một tội, nhưng tội phạm đó được thực hiện nhiều lần. Còn phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, có phạm tội có thể chỉ phạm một tội, nhưng có thể phạm nhiều tội với nhiều lần khác nhau, nhưng lại lấy việc phạm tội là phương tiện kiếm sống thường xuyên.

Cũng có quan điểm cho rằng, đối với trường hợp một người chỉ phạm một tội, nhưng được thực hiện nhiều lần trong một thời gian nhất định mà hành vi phạm tội đó được lặp đi, lặp lại thì cũng phải coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội phải lấy việc phạm tội làm phương tiện kiếm sống. Quan điểm này không có cơ sở khoa học, và nếu cứ coi trường hợp phạm tội nhiều lần nào cũng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì không thể lý giải được sự khác nhau giữa phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với phạm tội nhiều lần. Tuy nhiên, phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp không chỉ phạm tội cướp tài sản nhiều lần, mà người phạm tội còn phải lấy việc cướp tài sản là nguồn sống chính cho bản thân. Do đó, sự khác nhau giữa tình tiết là yếu tố định khung với tình tiết tăng nặng về trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp chính là ở điểm này.

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

Người phạm tội cướp tài sản nếu có hành vi dùng vũ lực hoặc có hành vi khác xâm phạm đến người bị hại mà có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 168.

Thương tích của người bị hại hoặc của người khác bao gồm cả thương tích do hành vi dùng vũ lực hoặc do hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản và thương tích do hành vi hành hung để tẩu thoát gây nên. Ví dụ: A dùng một đoạn cây chọc vào bánh xe đạp của B làm cho B bị ngã xe nhằm cướp xe của B, nhưng vì có nhiều người, nên A chưa lấy được xe của B thì phải bỏ chạy. B cùng mọi người đuổi bắt A, nên đã bị A dùng đoạn cây đánh mạnh vào đầu B làm cho B bị thương. Thương tích của B khi bị ngã xe chỉ có 4% nhưng thương tích bị A dùng cây đánh vào đầu là 21%, tổng thương tích của B là 25%.

Nếu người phạm tội gây thương tích cho nhiều người và tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người cộng lại từ 11% đến 30% thì người phạm tội cũng bị truy cứu theo điểm đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tỷ lệ thương tật của người bị hại hoặc của người khác phải do Hội đồng giám định pháp y xác định. Vì vậy cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định pháp y nếu người bị hại và những người khác bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe để làm căn cứ xác định người phạm tội bị truy cứu theo khoản nào của Điều 168.

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác

Trong các vụ án cướp tài sản, có trường hợp người phạm tội chỉ dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản mà không cần sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với người bị hại. Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy có nhiều trường hợp người phạm tội cướp tài sản sử dụng vũ khí, sử dụng phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm đối với người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc người phạm tội sử dụng vũ khí, sử dụng phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với người bị hại được coi như một trường hợp phạm tội cướp tài sản có tính chất và mức độ nguy hiểm hơn người phạm tội không sử dụng vũ khí, sử dụng phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác đối với người bị hại.

Vũ khí, theo Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành theo Nghị định 1996 của Chính phủ) bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể h số 47/CP ngày 12-8- thao, súng săn và vũ khí thô sơ.

Vũ khí quân dụng là các loại súng trường, súng ngắn, súng liên thanh; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hóa chất độc và nguồn phóng xạ; các loại đạn, bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi, vật liệu nổ quân dụng, hỏa và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng – an ninh.

Vũ khí thể thao là các loại súng trường, súng ngắn thể thao chuyên dùng các cỡ; các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên.

Vũ khí thô sơ là dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại ba, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) quy định. Tuy nhiên, cho đến nay ngoài các loại vũ khí thô sơ được quy định tại Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ như trên thì Bộ Công an chưa có quy định thêm các loại vũ khí thô sơ khác.

Khi áp dụng tình tiết sử dụng vũ khí đối với người phạm tội cướp tài sản cần lưu ý:

– Nếu người phạm tội có mang vũ khí nhưng không sử dụng vũ khí trong khi thực hiện hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc thì không coi là sử dụng vũ khí để cướp. Ví dụ: A luôn có một khẩu súng K54 giấu trong người, trong lúc đang ngồi uống bia với B và C, cả ba rủ nhau ra bến xe để hoạt động phạm tội. Khi ra bến xe, chúng phát hiện một phụ nữ bế con nhỏ vào nhà vệ sinh công cộng, cả ba bám theo. B đến gần nói” cho chúng tao ít tiền”. Chị M thấy A, B, C đứng vây quanh mình, định kêu cứu thì bị B dùng tay bịt miệng chị M, còn A ôm chị M để C lục soát lấy được 3.000.000 đồng của chị M. Trong trường hợp này, tuy A có vũ khí trong người, nhưng không sử dụng vũ khí để dọa chị M, nên trường hợp phạm tội cướp tài sản của A, B, C không phải là sử dụng vũ khí quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự, mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 168.

– Nếu người phạm tội sử dụng loại vũ khí đã mất tính năng tác dụng như súng hỏng, lựu đạn đã tháo kíp nổ.. nhưng người bị hại không biết thì người phạm tội vẫn bị coi là phạm tội có sử dụng vũ khí, kể cả trường hợp người phạm tội biết vũ khí đó mất tác dụng nhưng vẫn có ý thức sử dụng để đe dọa người bị hại. Ví dụ: Võ Minh Tân và Võ Đức An (bị cụt cả hai chân và là hai bác cháu). Tân nghe nói anh Ngô Văn Nghĩa trúng số đề nên bảo An đến nhà anh Nghĩa “xin” tiền. An đồng ý. Đúng 19 giờ, ngày 17-6-1989, Tân đến nhà An, An lấy súng Colt 45 giấu vào người rồi bảo Tân bồng y lên xe lăn và nay đến nhà anh Nghĩa. Đến nơi, An gọi anh Nghĩa ra bảo phải đưa cho bọn y 20.000 đồng. Anh Nghĩa không đưa mà mời An vào nhà uống nước. An không vào mà rút súng ra chĩa thẳng vào người anh Nghĩa buộc anh Nghĩa phải đưa tiền. Anh Ngô Bá Hành thấy vậy đã khuyên can An không được làm thế, nhưng An càng làm hung dữ, la chửi, đe dọa bắt anh Nghĩa phải đưa tiền. Bà con cạnh nhà anh Nghĩa thấy vậy đã đánh kẻng báo động; nhân dân trong xóm kéo đến vây bắt quả tang cùng với khẩu súng Colt 45 đã gỉ, không có băng đạn và cũng không có đạn. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, An thừa nhận khẩu súng Colt 45 y nhặt được đem về giấu cất trong nhà, đã lâu không lau chùi nên đã gỉ, súng không có băng đạn và không có đạn. Khi được Tân rủ đi xin tiền, y lấy đem theo để dọa anh Nghĩa bắt phải đưa tiền. Mặc dù không có đạn, nhưng người bị hại và những người khác vẫn tin rằng súng đó có đạn và quá sợ hãi thì hành vi sử dụng súng đó thực sự đã gây nguy hiểm cho xã hội. Nếu người bị hại biết súng của An không có đạn thì cũng không có việc sợ hãi và bà con trong xóm cũng không việc gì phải đánh An và đồng bọn.

– Nếu người phạm tội sử dụng vũ khí giả như súng nhựa, súng gỗ để đe dọa người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản và người bị hại cũng tưởng súng thật nên quá sợ hãi mà giao tài sản cho người phạm tội thì không thuộc trường hợp cướp có sử dụng vũ khí, vì súng giả không được coi là vũ khí. Tuy nhiên, người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 168 nhưng thuộc trường hợp “sử dụng thủ đoạn nguy hiểm khác”.

– Người phạm tội sử dụng vũ khí để cướp tài, ngoài việc bị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, nếu vũ khí đó là vũ khí quân dụng còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo Điều 230.

Phương tiện nguy hiểm là những vật mà người phạm tội sử dụng khi cướp tài sản có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như: các loại dao (dao bầu, dao nhọn, dao rựa, dao quắm, dao phát bờ, lưỡi lam, móc sắt.); các loại chất độc, chất cháy (ete, thuốc mê, thuốc ngủ, axít, chất phóng xạ..)…

Sử dụng phương tiện nguy hiểm là hành vi của người phạm tội thông qua những vật chứa đựng tính nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người. Việc đánh giá những vật có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của con người không phụ thuộc vào cách sử dụng những vật đó như thế nào, mà chỉ cần xác định tính năng, tác dụng của các vật mà người phạm tội sử dụng có chứa đựng khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của con người, là người phạm tội cướp tài sản đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 168.

Thực tiễn xét xử cho thấy, các vụ cướp tài sản, người phạm tội có sử dụng phương tiện nguy hiểm, nhưng các phương tiện đó hầu hết là vũ khí thô sơ. Tuy nhiên, do Bộ Công an chưa có quy định các loại vũ khí thô sơ ngoài quy định tại Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ, nên vẫn còn nhiều vật chứa đựng tính nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người mà người phạm tội sử dụng khi thực hiện hành vi cướp tài sản. Do đó, khi áp dụng tình tiết này cần chú ý:

– Nếu các vật đã được quy định tại Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ là vũ khí thô sơ thì cần xác định là người phạm tội sử dụng vũ khí. Chỉ coi là sử dụng phương tiện nguy hiểm nếu những vật đó chưa được Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ quy định là vũ khí thô sơ.

– Mặc dù điều luật quy định phương tiện nguy hiểm, nhưng không vì thế mà cho rằng chỉ những vậy dùng vào việc chuyên chở mới là phương tiện, mà phương tiện còn bao gồm cả những vật mà người phạm tội thông qua đó mà tác động người bị hại. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng dùng thuật ngữ phương tiện nguy hiểm dễ làm cho mọi người hiểu rằng đó là những phương tiện chuyên chở như xe máy, ô tô, tàu thuyền chứ không phải những vật dụng. Theo ý kiến này thì nên dùng thuật ngữ sử dụng công cụ nguy hiểm để không bị nhầm với phương tiện chuyên chở.

Thủ đoạn nguy hiểm là cách thức người phạm tội sử dụng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại và những người khác như: bỏ thuốc độc vào bể nước uống; dùng dây siết cổ nạn nhân; dìm nạn nhân xuống nước; dùng dây chăng qua đường khi người bị hại đi xe máy qua vướng vào dây bị ngã để cướp xe máy; dùng khóa dây, xích sắt vụt nạn nhân để cướp tài sản…

Tính nguy hiểm của những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng không phụ thuộc vào phương tiện mà phụ thuộc vào phương pháp sử dụng, có thể phương tiện sử dụng không chứa đựng khả năng gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe nhưng do người phạm tội biết cách sử dụng những phương tiện đó nên tạo ra khả năng gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác. Ví dụ: quả chanh và chiếc khăn mùi soa, bản thân nó không chứa đựng khả năng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại nhưng người phạm tội dùng quả chanh nhét vào mồm nạn nhân và lấy khăn mùi soa bịt chặt lại thì khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại sẽ nhiều hơn. Một chiếc dây thừng, bản thân nó không chứa đựng khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người nhưng nếu người phạm tội dùng nó để siết cổ nạn nhân thì lại rất nguy hiểm.

Tuy nhiên, đối với một số loại vũ khí, tính nguy hiểm cũng phụ thuộc vào phương pháp sử dụng, nhưng nếu người phạm tội sử dụng nó để cướp tài sản thì vẫn thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168. Ví dụ: một viên đạn súng trường nếu để rời không lắp vào nòng súng thì không chứa đựng khả năng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người, nhưng người phạm tội sử dụng để tấn công người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản thì vẫn bị coi là sử dụng vũ khí để cướp và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.

đ) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.

Trong nhiều trường hợp, người phạm tội cướp tài sản mới thực hiện hành vi vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản. Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp người phạm tội cướp đã lấy được tài sản. Nhưng dù người phạm tội có lấy được tài sản hay không mà tài sản đó (tài sản mà người phạm tội định chiếm đoạt) có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 2 Điều 168.

Đối với trường hợp người phạm tội lấy được tài sản, thì căn cứ vào giá bán tài sản đó tại địa phương xảy ra tội phạm để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chứ không căn cứ vào giá người bị hại mua hoặc giá người phạm tội bán cho người khác. Trong trường hợp cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành định giá để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, nhất là đối với tài sản có giá trị xấp xỉ 50 triệu đồng hoặc 200 triệu đồng hoặc tài sản không được lưu thông trên thị trường.

Đối với trường hợp người phạm tội chưa lấy được tài sản thì việc xác định giá trị tài sản cần phải phân biệt:

– Nếu có căn cứ xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt một loại tài sản nào đó như: định cướp chiếc xe máy của người khác, biết người bị hại vừa lĩnh 100 triệu đồng ở Ngân hàng nên chặn đường để cướp.. thì căn cứ vào giá của tài sản định cướp để xác định giá trị tài sản bị cướp.

– Nếu có căn cứ xác định người phạm tội không biết tài sản mình cướp có giá trị bao nhiêu, gồm những tài sản gì thì cũng căn cứ vào giá trị thật của tài sản mà người phạm tội định chiếm đoạt để xác định giá trị tài sản bị cướp. A, B và C chặn đường xem có ai đi qua thì cướp tài sản. Bọn chúng gặp một người mặc quần áo bộ đội, đeo ba lô đi qua, cả bọn xông ra đấm đá định cướp chiếc ba lô, nhưng bị người này chống cự quyết liệt nên chúng không lấy được chiếc ba lô. Sau khi xảy ra sự việc thì biết trong ba lô của người bị hại có nhiều tài sản có giá trị lên tới 190 triệu đồng.

Tuy nhiên, có trường hợp người phạm tội bắt trói người bảo vệ và đột nhập vào kho chứa hàng trăm chiếc ti vi màu, nhưng chưa lấy được chiếc ti vi nào thì bị phát hiện. Nếu căn cứ vào giá trị toàn bộ số tivi có trong kho để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 168, nên có ý kiến cho rằng, trong trường hợp người phạm tội không xác định rõ mục đích chiếm đoạt (có gì cũng cướp) hoặc không biết rõ giá trị tài sản mà mình chiếm đoạt mà chưa lấy được tài sản thì chỉ nên truy cứu người phạm tội theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự. Vấn đề này, chắc chắn các cơ quan có trách nhiệm sẽ phải giải thích hoặc hướng dẫn, nhưng chúng tôi cho rằng nên căn cứ vào giá trị thật của tài sản mà người phạm tội định chiếm đoạt để làm căn cứ xác định giá trị tài sản bị cướp. Bởi lẽ, đối với những người phạm tội cướp tài sản, nhất là những vụ cướp có tổ chức với quy mô lớn, dùng cả ô tô, tàu thủy để làm phương tiện hàng hóa cướp được mà không căn cứ vào giá trị tài sản thật mà chúng định cướp thì không góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống loại tội phạm nguy hiểm này.

g) Gây hậu quả nghiêm trọng

Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng nói chung và phạm tội cướp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng là trường hợp hành vi phạm tội gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác phi vật chất. Tất nhiên những hậu quả này không phải là những tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 168, nhưng nó cũng phải tương đương với các tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 168 vì nó cũng là một tình tiết được quy định trong cùng một khung hình phạt.

Đây là vấn đề không phải ai cũng nhận thức như nhau, vì có quan điểm muốn đưa ra một đại lượng chung cho tất cả các trường hợp phạm tội mà không thấy rằng mỗi tội phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, cùng là gây ra hậu quả chết người, nhưng nếu do vô ý gây ra thì tính chất, mức độ nguy hiểm không thể bằng hành vi do cố ý gây ra. Nếu do vô ý làm chết một người có thể được coi là hậu quả nghiêm trọng, nhưng nếu do cố ý gây chết một người lại là hậu quả rất nghiêm trọng, trong một số trường hợp còn là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy khi đánh giá hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cần phải căn cứ vào hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong một điều khoản cụ thể; không thể có một hậu quả chung cho tất cả các tội phạm.

Căn cứ vào các quy định tại khoản 2 Điều 168, qua thực tiễn xét xử có thể coi trường hợp sau đây là trường hợp cướp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% không phải là do hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công không thể chống cự được (không phải là hậu quả do hành vi khách quan của cấu thành tội cướp tài sản gây nên);

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người bị thương tích từ 11% đến 30%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật dưới 11% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 50 triệu đồng;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, ngoài tài sản bị chiếm đoạt;

– Ngoài những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cướp tài sản gây ra, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ cướp tài sản cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ: Đây là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản của những người bị hại do độ tuổi, mang thai hoặc già yếu, bệnh tật mà không có khả năng tự vệ hoặc tuy có nhưng khả năng tự vệ không cao. Việc xác định tuổi của người bị hại là người dưới 16 tuổi do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật; phụ nữ mà biết là có thai: được xác định bằng các chứng cứ chứng minh là người phụ nữ đó đang mang thai, như: bị cáo và mọi người đều nhìn thấy được hoặc bị cáo nghe được, biết được từ các nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai. Về người già yếu: hiện chưa có quy định hướng dẫn, thống nhất giải thích về đối tượng “Người già yếu”. Theo Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP thì Người già được xác định là người từ 70 tuổi trở lên. Còn theo quy định tại Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP thì Người già yếu là người: Từ 70 tuổi trở lên; Hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau ốm. Người không có khả năng tự vệ: là người đang trong thể trạng yếu đuối, bất lực về thể chất hoặc tinh thần, người bị bệnh tật, người đang say ngủ, người đang ở trong tình trạng không thể chống đỡ hoặc không thể tự bảo vệ mình được…

h) Tái phạm nguy hiểm

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; hoặc tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý (điểm a và điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự).

Tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt đối với tội cướp tài sản hay bất cứ tội phạm nào khác giống với tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Chỉ cần xác định lần phạm tội cướp này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo đúng các quy định về tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự là được, mà không cần phải xác định lần phạm tội trước nay có phải là tội cướp tài sản hay không.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm h khoản 2 Điều 168, người phạm tội bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khi áp dụng hình phạt theo khoản 2 Điều 168 đối với người phạm tội cần chú ý:

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì:

– Nếu người phạm tội cướp tài sản có nhiều tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 168, thì hình phạt phải cao hơn người phạm tội có ít tình tiết định khung hình phạt;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì hình phạt phải nhẹ hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng thì hình phạt phải nặng hơn người không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại gây ra càng lớn thì hình phạt càng nặng và ngược lại.

Trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 168 nhưng không được dưới ba năm tù, vì theo quy định tại Điều 54 thì “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.”.

  1. Cướp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 168 Bộ luật hình sự

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 168 chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Đây là tài sản có giá trị rất lớn, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 168 có khung hình phạt cao hơn khoản 2 Điều này.

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%

Trường hợp phạm tội quy định tại điểm c khoản 2 Điều 168 chỉ khác ở chỗ tỷ lệ thương tật của người bị hại hoặc của những người khác từ 31% đến 60%. Đây là tỷ lệ thương tật thuộc loại rất nặng, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 168 có khung hình phạt cao hơn khoản 2 Điều này.

Tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 168, nếu người phạm tội gây thương tích cho nhiều người và tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người cộng lại từ 31% đến 60% thì người phạm tội cũng bị truy cứu theo điểm b khoản 3 Điều 168.

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội cướp tài sản. Đây là tình tiết mới được quy định so với BLHS năm 1999, tình tiết này được áp dụng không phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của thiên tai, dịch bệnh hoặc tính chất, mức độ của những khó khăn khác của xã hội trong tình trạng thiên tai, dịch bệnh.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm c khoản 3 Điều 168 người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm. Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 168, khi áp dụng hình phạt theo khoản 3 Điều 168 đối với người phạm tội cần chú ý:

Nếu các tình tiết khác của vụ án khác như nhau thì khi quyết định hình phạt cần lưu ý đến các tình tiết khác tương tự như đã nêu ở mục 2 phần này.

Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 168, trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 168 nhưng không được dưới bảy năm tù.

  1. Cướp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 168 Bộ luật hình sự

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 168, chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ 500 triệu đồng trở lên. Đây là tài sản có giá trị đặc biệt lớn, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 168.

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 168, chỉ khác ở chỗ tỷ lệ thương tật của người bị hại hoặc những người khác từ 61% trở lên. Đây là trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 168.

Tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 và điểm v khoản 3 Điều 168, nếu người phạm tội gây thương tích cho nhiều người và tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người cộng lại từ 61% trở lên thì người phạm tội cũng bị truy cứu theo điểm a khoản 4 Điều 168.

c) Làm chết người;

Cần phân biệt tình tiết này với trường hợp giết người để cướp tài sản. Làm chết người là trước khi thực hiện hành vi cướp tài sản, người phạm tội không có ý thức giết người, hành vi dùng vũ lực của người phạm tội chưa gây ra cái chết cho người bị tấn công, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi cướp tài sản hoặc sau khi đã cướp được tài sản, người phạm tội bỏ mặc cho hậu quả xảy ra nên người bị tấn công bị chết. Ví dụ: A, B, C trói người bảo vệ kho để cướp tài sản, nhưng sau khi chúng bỏ đi, do kho nằm ở khu vực xa dân nên người bảo vệ không được ai mở trói đã bị chết do bị khát và đói.

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc biệt của đất nước được tuyên bố trong thời gian từ khi đất nước bị xâm lược cho tới khi hành động xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội cướp tài sản là trường hợp người phạm tội dựa vào các hoàn cảnh nêu trên để thực hiện tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi cướp tài sản trong trường hợp này phụ thuộc vào tính chất của hoàn cảnh chiến tranh; tính chất, mức độ của tình trạng khẩn cấp.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản 4 Điều 168, người phạm tội bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân. Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 168, khi áp dụng hình phạt theo khoản 4 Điều 168 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội cần chú ý:

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì khi quyết định hình phạt cần lưu ý đến các tình tiết tương tự như đã nêu ở mục 2 phần này.

Cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 168, trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 4 Điều 168 nhưng không được dưới mười hai năm tù.

  1. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội cướp tài sản, thì tại khoản 5 Điều 168 BLHS quy định người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 BLHS, thì chuẩn bị phạm tội cướp tài sản là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm.

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cướp tài sản

Theo quy định tại khoản 6 Điều 168 thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội cướp tài sản còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

Hình phạt tiền là loại hình phạt được quy định lần đầu tại BLHS năm 1999 đối với tội cướp tài sản, mức phạt tiền là từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, có thể nói nay là khung hình phạt tiền đối với tội cướp tài sản. Vì vậy, nếu Tòa án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cướp tài sản thì không được phạt trên một trăm triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 thì có thể phạt dưới mười triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 35 mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tuy nhiên vấn đề này cũng có ý kiến cho rằng, hình phạt bổ sung không thể có nhiều khung hình phạt, không có quy định một khung hình phạt, không có khung hình phạt nhẹ nhất và không có quy định việc chuyển sang khung hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, nên dù người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ cũng không được áp dụng dưới mức thấp nhất mà điều luật quy định. Quan điểm này, chỉ đúng với các loại hình phạt bổ sung khác, nhưng đối với hình phạt bổ sung là hình phạt tiền thì không hẳn là như vậy, vì hình phạt tiền dù là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung bao giờ cũng quy định một mức từ… đồng đến… đồng, nên phải coi đó là khung hình phạt tiền và không phải tội phạm nào nhà làm luật cũng quy định mức tối thiểu và mức tối đa như nhau, do đó có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tiền.

Mặt khác, hình phạt bổ sung cũng là hình phạt nên khi quyết định hình phạt cũng phải tuân theo các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt. Đối với các loại hình phạt bổ sung khác không có trường hợp quyết định dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là vì mức tối thiểu và mức tối đa của loại hình phạt được quy định ở Phần chung Bộ luật hình sự và trong từng tội phạm ở phần điều luật đều như nhau (từ một năm đến năm năm). Ví dụ: thời hạn quản chế quy định tại Điều 43 và tại khoản 6 Điều 168 về tội cướp tài sản đều từ một năm đến năm năm, nếu quyết định hình phạt dưới một năm là trái với Điều 43. Trong trường hợp này, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì chỉ có thể được áp dụng một năm (mức thấp nhất của khung hình phạt) hoặc không bị áp dụng hình phạt quản chế.

Việc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của người phạm tội cướp tài sản phải chú ý đến các quy định tại Điều 45 về loại hình phạt này. Chỉ tịch thu tài sản thuộc quyền sở hữu của người phạm tội, nhưng là tài sản ngoài tài sản bị cướp; không tịch thu các loại tài sản là đồ trang sức, vật kỷ niệm của người phạm tội. Nếu tịch thu toàn bộ tài sản thì vẫn phải để cho người phạm tội và gia đình họ có điều kiện sinh sống.

Khi áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với người phạm tội cướp tài sản, cần quyết định hình phạt rõ cấm cư trú ở địa phương cụ thể nào (xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, tỉnh, thành phố) không nên cấm một cách chung chung là “cấm bị cáo cư trú ở thành phố, thị xã.”. Nói chung nếu đã áp dụng hình phạt quản chế đối với người phạm tội thì không áp dụng hình phạt cấm cư trú đối với họ nữa vì nội dung của hình phạt quản chế là cư trú bắt buộc, dưới sự kiểm soát của chính quyền và nhân dân địa phương, không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

—–***——

Trích từ nguồn:

Bình Luận Khoa Học

BỘ LUẬT HÌNH SỰ – Tập II

(Từ trang 283 đến trang 331)

Thạc sĩ Luật học: Đinh Văn Quế

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *