PHÁT TÁN TIN GIẢ TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

PHÁT TÁN TÍN GIẢ TRÊN KHÔNG GIÀN MẠNG

THỰC TRẠNG, QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

 PGS.TS. PHẠM MINH TUYÊN

Đặt vấn đề

Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xã hội đang tiến vào một giai đoạn phát triển toàn diện về nền tảng công nghệ, cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, phương thức sinh thái hoạt động và quản trị. Đặc biệt là sự phát triển của công nghệ số đã đưa các hoạt động từ đời thực lên không gian mạng đã làm biến đổi nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Với khả năng kết nối vô hạn, mạng không gian mở rộng phạm vi không giới hạn lãnh thổ. Mạng lưới không gian cũng sẽ trở thành một phần không gian sống của con người, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống thực sự của con người. Rất nhiều vấn đề mới được đặt ra từ mạng không gian như: chiến tranh mạng, tội phạm mạng, an ninh mạng… đã được nhiều quốc gia nhận thức và tùy chọn thực tiễn cũng như sự phát triển của chính mình ở mỗi quốc gia gia đều có những biện pháp để giải đáp những vấn đề trên.

Bên rìa những vấn đề đó sẽ hiện ra vấn đề tin giả, tin sai sự thật trên mạng không gian đang trở thành mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Có thể khẳng định mạng gian lận không phải là kênh thông tin mới, thông tin nhanh chóng, đa dạng về nội dung và cung cấp số lượng cũng như không giới hạn số lượng người theo dõi. Do đó, những thông tin được sản xuất và lan truyền trên không gian mạng cũng có tác động tới con người ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Đặc biệt là vấn đề tin giả, tin sai sự thật có tác động xấu đến sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia, của cá nhân, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. chặn chặn, xử lý vấn đề tin giả, tin sai sự thật, các quốc gia khác nhau đều có những cách thức đồng bộ cả về khoa học công nghệ và quy định pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay, tình trạng tin giả, tin sai thực sự đã được tạo ra và phát tán khá phổ biến ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội trên nhiều mặt ở nhiều cấp độ, với nhiều động cơ, mục tiêu khác nhau, có thể là vì mục tiêu kinh tế, chính trị… Có những tin giả, tin sai sự thật được tạo ra nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, có tin giả bôi trơn danh dự, nhân sản phẩm cá nhân, có thiếc giả sử, đó là sự thật gây ảnh hưởng đến tổ chức. Có thể khẳng định, tin giả tin rằng ảnh hưởng thực sự xấu đến sự ổn định và phát triển xã hội về mọi mặt (kinh tế, chính trị, xã hội) và có thể ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Do đó, bên cạnh những giải pháp khoa học công nghệ để ngăn chặn việc phát tán tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng thì Việt Nam cũng đã xây dựng hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ để ngăn chặn và xử lý tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng. Trong phạm vi bài viết, tác giả làm rõ một số vấn đề về tin già, quy định của pháp luật về tin giả, từ đó đề xuất đưa ra một số kiến ​​nghị hoàn thiện luật.

  1. Một số vấn đề về tin giả, ảnh hưởng tiêu cực của tin giả đến xã hội

Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa đưa ra khái niệm về “tin giả”. Thuật ngữ “thông tin giả mạo” xuất hiện 7 lần trong Nghị định số 15/2020/ND-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định xử lý phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử (sau đây gọi là Nghị định số 15/2020/ND-CP). Tuy nhiên, Nghị định Số 15/2020/ND-CP, Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Báo chí năm 2016… chưa đưa ra khái niệm về tin giả. Tuy nhiên, có một số định nghĩa “tin giả” như sau:

Tin giả (tiếng Anh: fake news), còn được gọi là tin rác hoặc tin giả lừa đảo, bao gồm các thông tin cố ý hoặc lừa đảo bịp lan truyền qua phương tiện truyền thông tin tức truyền thông (trong và phát sóng) hoặc phương tiện truyền thông xã hội trực tuyến”. Theo từ điển Cambridge: “Tin giả là những câu chuyện không có thật được truyền tải dưới dạng tin tức trên Internet hoặc các phương tiện truyền thông khác, thường được tạo ra để tác động đến quan điểm chính trị hoặc tạo ra như một trò chơi đùa”. Theo ấn phẩm báo chí của UNESCO: Tin giả ngày nay không chỉ là cái gắn thông tin sai sự thật và gây bối rối, được ngụy trang và phát tán như tin tức. Tin giả hay tin xuyên là một lời nói dối cố ý, có mục tiêu chủ yếu, nhắm vào những kẻ ác ý chủ động lừa dối. Theo Liên minh Châu Âu (EU): Tin giả được hiểu là thông tin sai lệch hoặc thông tin cố ý gây hiểu các nguy cơ có thể kiểm tra được tạo ra, trình bày và phát tán vì lợi ích kinh tế hoặc cố ý lừa dối công khai và có thể gây tổn hại cho cộng đồng.

Trên cơ sở tham khảo các định nghĩa nêu trên và xuất bản phát từ công tác quản lý nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông đưa ra định nghĩa về tin giả trên không gian mạng như sau: “ Tin giả trên không gian mạng là những thông tin sai sự thật được cố gắng tải lên, lan truyền mục tiêu không chính đáng, gây hiểu lầm cho người đọc, người xem hoặc những thông tin có một phần thật sự nhưng không hoàn toàn chính xác không được kiểm tra Được chứng minh hoặc phóng đại, suy diễn làm thay đổi bản chất của sự việc, thường xuất hiện dưới dạng tin tức và được lan truyền chủ yếu trên mạng xã hội”.

Hành vi phát tán tin giả trên mạng không gian có thể ảnh hưởng đến an ninh – kinh tế, hoạt động đến an ninh quốc gia; tác động đến niềm tin của dân dân tranh luận với các thông tin trên báo chí chính thống; hoạt động đến sức khỏe cộng đồng.

Như vậy, dựa trên khái niệm cơ bản về tin giả trên mạng không gian, họ đã tìm thấy một số đặc điểm của việc phát tán tin giả trên mạng không gian như sau:

Một là, phát tán tin giả trên không gian mạng là hành vi thực tế của chủ thể có thể thực hiện các hành vi phát tán tin giả;

Hai là, công việc phát tán tin giả là những thông tin sai sự thật ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội có thể ở nhiều cấp độ khác nhau (ít nguy hiểm, nguy hiểm, rất nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm cho xã hội) trong từng thời điểm lịch sử xã hội;

Ba là, chủ nhân có thể phát tán tin giả trên mạng không gian là chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội (có thể là cá nhân, tổ chức) thực hiện với mục tiêu cố gắng;

Bốn là, về động cơ, mục tiêu của hành động phát tán tin giả có thể có nhiều động cơ, mục tiêu khác nhau, có thể là vì kinh tế, mục tiêu chính trị …;

Cuối cùng, tùy thuộc vào tính chất, tốc độ và hậu quả của hành vi phát tán giả tưởng trên không gian mạng, các nước khác nhau có thể quy định hệ thống các quy phạm pháp luật để xử lý hành vi trên (pháp luật có thể xác định các chế độ tài chính chính, chế độ tài chính hoặc cả hai).

  1. Thực trạng phát tán tin giả trên không gian mạng và quy định của pháp luật xử lý phát tán giả tưởng trên không gian mạng

Việt Nam là một trong số những nước có tốc độ phát triển nhanh về công nghệ thông tin (CNTT), số người sử dụng Internet, mạng xã hội lớn. Những tháng đầu năm 2022 được xác định là gam màu sáng, khi đại dịch Covid-19 về cơ bản được kiểm soát, hoạt động sản xuất kinh doanh đã trở lại trạng thái bình thường. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, GDP quý II/2022 ước tính tăng 7,72% so với cùng kỳ năm trước, cao nhất trong giai đoạn 10 năm trở lại đây. GDP 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,42%, cao hơn tốc độ tăng 5,74% của 6 tháng đầu năm 2021 và cải thiện đáng kể với tốc độ tăng 2,04% của 6 tháng đầu năm 2020. Trong khả năng tăng cường chung của toàn nền kinh tế, ngành CNTT tiếp tục duy trì được tăng trưởng. Năm 2021 tổng doanh thu ngành công nghệ thông tin – viễn thông (CNTT-VT) đạt 136.153 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2020. Số lượng DN công nghệ số tại Việt Nam trong năm 2021 đạt 64.000 doanh nghiệp, tăng 9 ,5% so với năm 2020. Về doanh thu CNTT-VT, 5 tháng đầu năm 2022 đạt 57 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2021. Với sự tăng trưởng doanh thu trong 5 tháng đầu năm 2022 , ngành CNTT- VT được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những tháng cuối năm 2022, bởi làn sóng chuyển đổi số tiếp theo Tiếp tục diễn ra, đầu tư công nghệ được coi như một nhu cầu tự nhiên, giúp cải thiện hiệu quả hoạt động vận hành và giảm thiểu chi phí sản xuất trên mọi lĩnh vực. Dự báo của IDC – Hãng cung cấp dữ liệu thị trường về công nghệ thông tin được tìm thấy, đầu tư chuyển đổi số toàn cầu vẫn đang tăng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) với dự báo đạt 15,5% trong giai đoạn 2020-2023. Theo thống kê Digital (số liệu tính tới thời điểm tháng 01/2021) thì: Số lượng người dùng Internet ở Việt Nam là 68.720.000 người, tăng 551.000 người (tăng 0,8%) trong giai đoạn 2020-2021, sử dụng 70,3% dân số; số lượng người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam là 72 triệu (tăng hơn 7 triệu người trong vòng 1 năm), tương đương 73,7% tổng dân số, tăng 7.000.000 người (tăng 11%) trong giai đoạn 2020 -2021…

Bên bờ những lợi ích có được thì mạng xã hội cũng mang lại những tác hại nhất cho cuộc sống con người. Với tính chất đặc thù như dễ xóa đi dấu vết, khó xác định danh tính của người sử dụng trên mạng xã hội dẫn tới tình trạng phát tán tin giả trên Internet với con số đáng báo động và đang diễn biến phức tạp theo chiều hướng gia tăng. Các đối tượng mạnh mẽ để lợi dụng các tính năng của mạng xã hội để tuyên truyền, vu cáo, ý đồ kích động chống Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp, gây rối loạn về thông tin… gây nguy hiểm cho xã hội hội ở nhiều cấp độ khác nhau.

– Hướng tới hành vi và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Việc phát hiện tin giả trên mạng xã hội được thực hiện với nhiều nội dung khác nhau và gây nguy hiểm cho xã hội ở nhiều cấp độ khác nhau tùy thuộc vào chất chất, Độ, hậu quả của việc phát tán tin giả. Hành vi phát tán tin giả trên mạng không gian có thể ảnh hưởng đến các hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội… gây mất an toàn cho xã hội ở nhiều cấp độ khác nhau.

– Về động cơ, mục tiêu khác nhau nhưng chủ yếu là vì mục tiêu kinh tế, để nổi tiếng hoặc rèn luyện nhọ, nói xấu chính quyền… Bên cạnh đó, xuất hiện một số đối tượng xấu vì động cơ lợi kinh tế đã tạo ra tin giả, tin sai sự thật phát tán trên không gian mạng, tốt nhất là mạng xã hội để thu Hút người dùng tương tác nhắm thu lợi ích từ việc bán hàng, ủng hộ, tài trợ bằng tiền, lợi ích vật chất… gây hoang mang dư luận. Tình trạng tràn lan các video có nội dung nhảm nhí, giật gân trên mạng xã hội nhắm kéo người xem để kiếm tiền.

– Về thủ đoạn để thực hiện hành động phát tán tin giả trên không gian mạng hiện nay: Thủ đoạn phổ biến tạo lập các tài khoản cá nhân mạng xã hội mạo hiểm lãnh đạo Đảng, Nhà nước, người đứng đầu các quyền cấp , mạo danh người nổi tiếng; chỉnh sửa các thông số kỹ thuật của tập tin thời gian để đăng tải tin giả, tin sai sự thật hướng dẫn dư luận; lợi dụng các sự kiện “nóng”, các “vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội” để tạo dựng thông tin giả mạo, đánh lừa dư luận. Hoàng chí, một số đối tượng được tìm thấy mọi cách để nổi tiếng trên mạng xã hội, kể cả việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nhà sản xuất nội dung phản ánh, thiếu tính giáo dục, giả mạo thông tin, động kích bạo lực, bôi nhọ, nói xấu chính quyền.

Đã xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phát tán tin giả, Nhà nước đã xây dựng quy tắc hệ thống pháp luật về vấn đề xử lý tin giả trên mạng xã hội với hệ thống văn bản các quy phạm pháp luật khác nhau (các hành động chính và hình sự) làm cơ sở pháp lý để xử lý hành vi phát tán tin giả trên không gian mạng. Bên bờ, Bộ Công an đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương tăng cường công tác theo dõi, nhanh chóng quét thông tin trên mạng xã hội, kịp thời phát hiện và xử lý chất béo của cá nhân, tổ chức chức năng trên địa chỉ bàn có hành động phát tán các tin giả, phản động, xấu độc, vi phạm luật. Bộ Công an đã phân phối hợp lý với Bộ Thông tin và Truyền thông phát triển khai nhiều giải pháp đấu tranh đồng bộ về pháp lý, kinh tế, kỹ thuật thúc đẩy các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới bình thu pháp luật Việt Nam; qua đó kiểm soát, hạn chế, ngăn chặn, gỡ bỏ phản ứng kịp thời thông tin giả, xấu, độc hại, phản cảm trên mạng xã hội”.

– Về chế độ tài chính hành chính: Nghị định số 15/2020/ND-CP của Chính phủ quy định chế độ tài chính để xử lý các hành động phát tán tin giả trên không gian mạng gây nguy hiểm cho xã hội và phải đảm bảo chế độ tài hành quy định chính tại các điều 99, 100, 101, 102, cụ thể:

Điểm a khoản 5 Điều 99 Nghị định số 15/2020/ND-CP quy định: “5. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Ngăn chặn việc loại bỏ đường dẫn đến thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn , thông tin vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm quy định tại các tài khoản 2 và 3 Điều này” .

Điểm a khoản 3 Điều 100 Nghị định số 15/2020/ND-CP quy định: “3. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Chủ động lưu trữ, truyền thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật , vu vơ, nhẹ nhàng, xúc phạm uy tín nhiệm của tổ chức và danh dự, nhân sản phẩm của cá nhân”.

Điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/ND-CP quy định: “1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối hành vi lợi ích mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau: a) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên suốt . _

 Điểm n khoản 3 Điều 102 Nghị định số15/2020/ND-CP quy định: “3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: … n) Giả lừa tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả lừa, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Như vậy, Nghị định số 15/2020/ND-CP quy định các mức xử phạt tương ứng với từng đối tượng, từng nhóm hành vi:

Một là, hành vi đưa thông tin sai thật, xuyên qua, vu bá, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân sản phẩm của cá nhân các Trang điện tử vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng. Được áp dụng giải pháp giải quyết hậu quả buộc loại bỏ đường dẫn đến sai sót thông tin hoặc gây nhầm lẫn, thông tin vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm (quy định tại điểm 3 và điểm 5 tài khoản Điều 99).

Hai là, hành vi chủ động lưu trữ, truyền tải thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, vu trắng, xuyên sét, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự, nhân sản phẩm của cá nhân; chủ động lưu trữ, thiết bị truyền thông đưa ra, gây hoang mang trong nhân dân sẽ phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 70 triệu đồng; được áp dụng giải pháp giải quyết hậu quả để loại bỏ sai sót thông tin thực sự hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật đối với hành vi vi phạm (quy định tại điểm 3 và điểm 5 Điều 100) .

Ba là, hành vi lợi ích mạng xã hội để thực hiện hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, nhẹ nhàng, vu nguy, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự , nhân sản phẩm của cá nhân, cung cấp, chia sẽ thông tin thiết bị, gây hoang mang trong nhân dân sẽ bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng; được áp dụng giải pháp giải quyết hậu quả để loại bỏ sai sót thông tin thực sự hoặc gây khó chịu hoặc thông tin vi phạm pháp luật thực hiện hành vi vi phạm ( quy định tại điểm a tài khoản 1 và tài khoản 3 Điều 101).

Bốn là, hành vi vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền tải, cung cấp, truy cập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin: Giả tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin tin giả lừa, thông tin sai sự thật xâm hại quyền và hữu ích pháp của tổ chức, cá lợi nhân (quy định tại điểm n khoản 3 Điều 102).

Bên cạnh đó, Nghị định số 15/2020/ND-CP cũng quy định chế độ tài chính đối với các hành vi gian dối hoặc cung cấp thông tin giả mạo để được cấp Giấy phép Viễn thông; cung cấp thông tin giả mạo để được cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện; cung cấp thông tin giả mạo để được tham gia thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện tại các điều 15, 57 và 59.

– Về chế độ tài hình sự: Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015) quy định các hành vi và chế độ tại các điều 117, 156, cụ thể:

Điều 117 BLHS năm 2015 quy định về tố làm, bảo tàng, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:

“1. Ai là một trong những hành vi sau đây chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

  1. a) Làm, bảo tàng, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung Motif, phỉ báng chính quyền nhân dân;
  2. b) Làm, bảo tàng, phát hoa hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung thiết bị, gây hoang mang trong nhân dân;
  3. c) Làm, bảo tàng, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý.
  4. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
  5. Người chuẩn bị phạm tội này sẽ bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Khoản 1 Điều 156 BLHS năm 2015 quy định về kiện vu như sau:

“1. Ai thực hiện một trong các hành vi sau đây sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải cách không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

  1. a) Bịa đặt hoặc cho vay truyền tải những điều kiện biết nó là sự thật sự xúc phạm nguy hiểm nhân sản, danh dự hoặc gây tổn hại đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người khác;
  2. b) Bị buộc tội và tố cáo người khác trước cơ quan có thẩm quyền.

…”.

Khoản 1 Điều 288 BLHS năm 2015 quy định về tội đưa ra hoặc sử dụng trái phép máy tính mạng thông tin, Viễn thông thông tin như sau:

“1. Ai thực hiện một trong các hoạt động vi sau đây, thu bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải cách không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

  1. a) Đưa lên mạng máy tính, Mạng Viễn thông những thông tin trái với quy định của pháp luật, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại các điều 117, 155, 156 và 326 của Bộ luật này;
  2. b) Mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa hợp pháp thông tin riêng của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy tính, Mạng Viễn Thông mà chủ sở hữu không được phép thông tin đó;
  3. c) Hành vi khác sử dụng trái thông tin trên mạng máy tính, Viễn Thông Viễn Thông.

…”.

Như vậy, BLHS năm 2015 quy định các chế độ tương thích đối với từng đối tượng, từng nhóm hành vi:

Một là, hành vi làm, bảo tàng, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung thiết bị, gây hoang mang trong Nhân dân với mục tiêu chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể xử lý tội làm, bảo tàng, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 117 BLHS năm 2015; tội phạm sẽ bị xử phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

Hai là, hành vi sử dụng mạng máy tính hoặc mạng Viễn thông, thiết bị điện tử phương tiện hoặc cho vay truyền bá những điều được biết là sai sự thật, tăng cường phạm vi nhân sản, danh dự hoặc gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, có thể được truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu theo Điều 156 BLHS năm 2015. Khung hình phạt cao nhất đối với kẻ phạm tội có thể đến 07 năm tù và có thể được áp dụng Hình phạt bổ sung là tiền phạt từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng; cấm nhiệm vụ, cấm hành nghề hoặc công việc được xác định từ 01 năm đến 05 năm.

Ba là, hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng Viễn thông những thông tin trái với quy định của pháp luật để thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc dư luận xấu, làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể bị xử lý về tội đưa ra hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, Viễn thông theo khoản 1 Điều 288 BLHS năm 2015 . Người phạm tội sẽ bị xử phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải cách không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là tiền phạt từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng; cấm nhiệm vụ, cấm hành nghề hoặc công việc được xác định từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy, hệ thống luật pháp Việt Nam về cơ bản đã có hệ thống luật phạm pháp về hình sự và hành chính để xử lý những hành vi phát tán tin giả trên không gian mạng. Ven bờ, Nhà nước ta cũng sử dụng một số giải pháp khác nhằm hạn chế, phòng nhiều, giảm tác hại của hành vi phát tán tin giả trên không gian mạng như: tuyên truyền về các hình thức phát tán tin giả và tác tổn hại của tin giả trên các phương tiện truyền thông đại chúng”; phát hành cẩm nang phòng, chống tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng…

  1. Một số chế độ hạn chế, bất chấp quy định của pháp luật

Từ công việc phân tích thực trạng phát tán tin giả trên không gian mạng và quy định của luật pháp, cũng như chế độ xử lý được cho thấy, mặc dù Việt Nam đã có hệ thống luật tương đối đầy đủ để xử lý vấn đề trên , tuy nhiên, thực tiễn được phát hiện, vẫn còn những chế độ hạn chế, không mong muốn nhất, cụ thể:

Thứ nhất , các văn bản luật hiện hành chưa có định nghĩa chính xác nào là tin giả, hay nói cách khác là, luật pháp chưa có khái niệm thống nhất về tin giả; hành vi vi phạm với tin giả chưa có thống nhất rõ ràng về việc xử lý hành vi vi phạm trong quy định của pháp luật về xử lý giả trên mạng xã hội, luật về xử lý tin giả trên mạng xã hội chưa có quy định nhất về máy chủ có thể được xử lý.

Thứ hai, trong luật hình sự, hành chính, cũng tồn tại những giới hạn chế độ riêng biệt như: hành vi vi phạm vẫn có các lặp lặp trong cấu hình tội phạm của các tội danh khác nhau, chế độ chưa sát và chưa có chế độ tài mang tính giải quyết hậu quả đối với tin giả trên mạng xã hội, tính bất ổn trong hệ thống văn bản luật (Luật An ninh mạng năm 2018 với văn bản quy định chế độ tài chính chính là Nghị định số 15/2020/ ND-CP), chế độ tài chính chính còn nhẹ nhàng, chưa có phân tích hóa hành vi và giải pháp hậu quả khác chưa được giải quyết vấn đề hậu quả của giả tưởng.

Thứ ba , bất chấp các quy định của pháp luật

Một là, theo quy định tại các khoản 5, 9 Điều 16 Luật An ninh mạng năm 2018 quy định hành vi vi “đăng tải” có nội dung thiết bị đặt sai thật, thì phải đảm nhận trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Nghị định số 15/2020/ND-CP không quy định chế độ tài chính đối với hành động “đăng tải”, cụ thể:

 Điều 16 Luật An ninh mạng năm 2018 quy định về phòng chứa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động bạo loạn, rối loạn an ninh, gây rối loạn trật tự công cộng; làm nhục, vu vơ; Chống phạm trật tự quản lý kinh tế, tại tài khoản 5, 9 quy định: “5. Thông tin trên không gian mạng có nội dung thiết bị, sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công phục vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

  1. Tổ chức, cá nhân chỉnh sửa, đăng tải , phát tán thông tin trên mạng không có nội dung quy định tại các tài khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này phải loại bỏ thông tin khi có yêu cầu về năng lượng chuyên bảo vệ an ninh mạng và cam kết trách nhiệm theo quy định của pháp luật”.

Hai là, hành vi “lưu trữ…” của tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội lại không phải hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng năm 2018, nhưng lại bị xử lý chính theo Nghị định số 15 /2020/ND-CP, cụ thể:

Điều 100 Nghị định số 15/2020/ND-CP quy định về vi phạm các quy định về trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội, tại điểm 3 quy định:

“3. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành động sau:

  1. a) Chủ động lưu trữ, truyền tải thông tin giả mạo , thông tin sai sự thật, vu vơ, thoáng nhẹ, xúc phạm uy tín của tổ chức và danh dự, nhân sản phẩm của cá nhân”.

Ngược lại, hành vi “cung cấp” tin giả được xử lý hành chính theo Nghị định số 15/2020/ND-CP, nhưng lại không phải là hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng năm 2018. Cụ thể, điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/ND-CP quy định: “1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi ích mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau:

  1. a) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên, vui nhẹ, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân sản phẩm của cá nhân”.

Ba là, hành vi “lưu trữ” có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định số 15/2020/ND-CP với tổ chức, nhưng không thể xử lý sự kiện đối với tổ chức theo quy định của BLHS.

 Ngược lại, action vi “làm” tin giả sẽ được xử lý hình ảnh nhưng không phải chịu chế độ tài chính chính. Điều 117 BLHS năm 2015 quy định về tố làm, bảo tàng, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống Nhà nước. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo đó, tại điểm a khoản 1 quy định:

“1. Ai là một trong những hành vi sau đây chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì bị phạt tù từ 05 năm dén 12 năm :

  1. a) Làm, bảo tàng, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung Mot, phỉ bảng chính quyền nhân dân”.

Như vậy, với quy định không thống nhất về mặt hành vi vi phạm được xử lý thì tất yếu hoạt động áp dụng pháp luật sẽ bị hạn chế, đặc biệt là vấn đề bỏ lọt hành vi vi phạm .

  1. Một số kiến ​​nghị

Thứ tư, quy phạm khái niệm hóa học để thống nhất nhận thức và áp dụng luật trong quá trình xử lý.

Trong hệ thống pháp luật về xử lý hành vi phát tán giả trên mạng xã hội hiện hành, các văn bản luật liên quan mới chỉ đưa ra kỹ thuật dự đoán “ thông tin giả tưởng” vào trong chế độ định nghĩa (thuật ngữ “thông tin tin giả mạo” xuất hiện 7 lần trong Nghị định số 15/2020/ND-CP) mà chưa có quy định nào giải thích hay định nghĩa toàn diện, đầy đủ. Tất cả các quy phạm luật trong Nghị định số 15/2020/ND-CP, Luật An ninh mạng năm 2018, Luật báo chí năm 2016… cũng chưa đưa ra khái niệm về tin giả. Luật An ninh mạng năm 2018 đã chỉ định truy cập thuật ngữ “thông tin sai sự thật” 2 lần, mà không có bất kỳ chủ đề nào tới tin giả và phát tán tin giả.

Việc đưa ra khái niệm “tin giả” là một chế độ hạn chế, không mong đợi, “tin giả” và “phát tán tin giả” là hiện tượng phổ biến ở nước ta hiện nay. Đây là một vấn đề khó khăn bất ngờ trong quá trình áp dụng luật pháp để xử lý các hành vi vi phạm. Không có công cụ định nghĩa nào, các chủ thể xử lý không thể xác định thông tin được xác định như thế nào là tin để giả xử lý, các chủ thể trong xã hội không biết thông tin được đưa ra của mình phải có giá hay không, để từ đó, xác định hành vi của mình có hợp pháp hay không, có chịu sự điều chỉnh của pháp luật về xử lý giả hay không.

Hiện nay, trên nền tảng mạng xã hội, lượng thông tin vô cùng lớn, với các loại hình ảnh khác nhau từ ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết tới hình ảnh, video, thì việc làm không có cơ sở để xác định thế nào là tin giả sử một cách thống nhất là một luật pháp trở nên vô cùng lớn trong quá trình xử lý. Ở rìa đó, khi không có cơ sở vững chắc là tiền đề để đánh giá hành vi của các chủ thể trong xã hội, thì tình trạng áp dụng luật là một cách tiện lợi, áp dụng luật pháp tối thiểu nhất trong quá trình xử lý lý do vi phạm…

Do đó, tác giả đề xuất cần phải quy phạm hóa khái niệm tin giả vào văn bản quy phạm pháp luật liên quan để đưa ra cách hiểu thống nhất về tin giả và có tính áp dụng phổ biến, thống nhất trên thực tế. Đồng thời, cần được quy định trong một văn bản có hiệu lực pháp lý cao, làm cơ sở cho các văn bản khác tiến hành định nghĩa các hành vi vi vi phạm để xử lý quy trình

Thứ hai, quy phạm hóa quy định về việc định tội danh trong trường hợp hành vi vi phạm thỏa mãn cấu hình của nhiều tội phạm.

Hiện nay, vẫn tồn tại tình trạng một hành vi phức tạp cấu hình thành nhiều tội xảy ra ở các hành vi đối với tin giả. Tiêu biểu đó là vi “vu vu” trong tội hành hành vu phí và hành vi vi “làm nhục” trong tội làm nhục người khác. Các hành động vi phạm giả, mà có mục tiêu xúc phạm nguy hiểm nghiêm trọng, nhân sản phẩm, uy tín của người khác hoặc gây tổn hại cho người khác thì phiền phức cấu thành bồi vu. Tuy nhiên, bất kỳ hành động nào gây xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự nhân sản phẩm của người khác thì sẽ thỏa mãn hành vi làm xúc phạm. Như vậy, với khách thể là danh dự, nhân sản phẩm, uy tín thì hai cấu thành có sự giao thoa nhau khi mà với mục đích xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân thì sản phẩm, gây ra tình trạng căng thẳng gây phiền phức hành động vi làm nhục (lỗi cố ý là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm) nhưng khi đó nó cũng phiền phức dấu hiệu của tội vu trả khi hành vi đăng tải, phát tán tin giả có mục đích xúc phạm béo phì danh dự dự phòng , nhân sản, uy tín thì đã thỏa mãn điều này. Như vậy, khi đăng tải, phát tán tin giả vừa có mục tiêu, vừa có hậu quả xúc phạm chất béo danh dự nhân sản phẩm, uy tín thì bị xử lý theo cách nào? Thực tế Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn vấn đề này tại Công văn số 233/TANDTC-PC ngày 01/10/2019 về việc trao đổi nghiệp vụ. Cụ thể nội dung hướng dẫn như sau: Trường hợp nguồn thực hiện 01 hành vi nhưng thỏa mãn mãn tính cấu hình của nhiều tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nặng hơn. Như vậy, từ hướng dẫn trên ta có thể tìm thấy trong trường hợp này thì khi phiền phức hành vi của cả tội vu và tội làm thú cho người khác thì sẽ bị xử lý về tội nặng hơn đó chính là tội vu vu.

Tuy nhiên, công văn này chỉ có giá trị áp dụng trong hệ thống Tòa án nhân dân, nó không phải là một văn bản luật phạm pháp. Trong khi đó, hoạt động tố tụng phải trải qua nhiều giai đoạn (điều tra, truy tố, xét xử) thì các văn bản chỉ có giá trị mang tính hướng dẫn trong hệ thống tòa án nhân dân sẽ không có tính bắt buộc cơ quan tiến hành tụng khác phải tăng cường dẫn dắt tới tình trạng không thống nhất khi áp dụng pháp luật.

Do đó, cần phải quy phạm hóa hướng dẫn này trong một văn bản quy phạm pháp luật để có cách thống nhất hướng dẫn áp dụng luật. Theo tác giả, cần có thông tư liên tịch của các cơ quan tiến hành tố tụng về vấn đề này. Trong thời gian chưa xây dựng thông tin tư vấn, Hội đồng Thẩm phán Tòa nhà nhân dân tối cao cần nghiên cứu lựa chọn phán đoán về vấn đề này.

Thứ ba, quy định cụ thể có thể giải quyết hậu quả trong các chế độ tài chính của Nghị định số 15/2020/ND-CP.

Giải pháp giải quyết hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm đối với tin giả là loại bỏ thông tin sai sự thật, gây khó chịu, tuy nhiên với mỗi giải pháp này, bạn mới chỉ loại bỏ tin giả trên mạng xã hội mà giả thuyết của những người đã nhận vẫn chưa được thay đổi. Giải pháp giải quyết hậu quả này là một trong những giải pháp giải quyết hậu quả được quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Tuy nhiên, biện pháp này lại không được nêu ra để áp dụng trong Nghị định số 15/2020/ND-CP mà chỉ áp dụng biện pháp buộc loại bỏ thông tin sai thật nên không thể áp dụng nó trên thực tế đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực này. Tác giả đề xuất bổ sung quy định về giải pháp giải quyết hậu quả này vào Điều 100, 101 Nghị định số 15/2020/ND-CP, cụ thể:

Bổ sung bổ sung khoản 5 tại Điều 100 như sau: “5. Giải pháp khắc phục hậu quả”

  1. a) Buộc bỏ, buộc cải thiện sai thông tin thực sự hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật hành vi vi phạm quy định tại tài khoản 3 Điều này; đi thi sinh
  2. b) Buộc thu hồi tên miền thực hiện hành vi vi phạm quy định tại tài khoản 3 Điều này”.

Bổ sung bổ sung khoản 3 tại Điều 101 như sau: “3. Giải pháp khắc phục hậu quả:

Buộc gỡ bỏ, buộc cải thiện sai thông tin thực sự hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các tài khoản 1 và 2 Điều này”.

Ở cạnh đó, về nguyên tắc, một hành động chỉ được xử lý một lần từ đó không thể đưa ra giải pháp giải quyết hậu quả trong các phạm pháp luật hành chính để áp dụng cho các phạm pháp luật hình sự nếu như hành vi được xử lý bởi chuyên gia. Từ đó, pháp luật hình sự cũng cần bổ sung giải pháp giải quyết hậu quả này vào hệ thống giải pháp pháp luật mang tính giải quyết hậu quả trong BLHS. Cụ thể, sửa đổi Điều 46 (điểm b khoản 1) BLHS năm 2015 như sau: “Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi, cưỡng chế cải thiện thông tin chính xác sai thật hoặc gây khó chịu”.

Thứ tư, tăng cường xử lý vi phạm hành chính và phân hóa trách nhiệm theo mức độ nghiêm trọng của hành vi

Mức độ xử lý hiện nay còn nhẹ nhàng, cần nâng cao khả năng định hình đối với hành vi vi phạm để tăng cường sức mạnh đe dọa, giáo dục cho các chủ thể trong xã hội. Ít nhất với thời điểm hiện tại thì khả năng xử lý thấp nhất, bằng cách xử lý theo quy định tại Nghị định số 174/2013/ND-CP trước đây. Cạnh đó, trong các quy định về chế độ tài chính chính thì chưa có phân tích hóa chất, cấp độ của hành vi vi phạm. Vì vậy, cần phải phân tích rõ ràng mức độ nguy hiểm của các hành động để từ đó có các chế độ tài chính phù hợp. Theo hoạt động, cần dựa vào hoạt động và lan truyền thông tin, tức là sự phổ biến của tin giả để đối tượng tiếp theo nhận thông tin. Các hậu quả có thể được định lượng ở rìa thì giả sử có nguy hiểm hoặc không cần thiết phải có hoạt động của nó để nhận biểu thức của đối tượng tiếp theo, tương tác của các chủ thể trên mạng xã hội đối với tin giả chính là thước đo cho mức độ nguy hiểm của tin giả và hành động đối với tin giả đó. Căn cứ có thể xác định được khi mạng xã hội luôn có những số liệu chỉ để đánh giá mức độ phổ biến của thông tin đăng tải trên cộng đồng mạng xã hội là lượt xem, lượt thích, chia sẻ, bình luận… Trên cơ sở phân tích trách nhiệm phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi vi phạm.

Thứ tư, cần phải xác định rõ nhất về hành vi được xử lý trong hệ thống pháp luật xử lý trên mạng xã hội.

Một là, quy định xử lý hành chính với hành vi “đăng tải” tin giả lên mạng xã hội, “làm” tin giả trong Nghị định số 15/2020/ND-CP.

Từ đó sửa đổi điểm 1 Điều 101 thành: “1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi ích mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau:

  1. Làm, cung cấp, đăng tài, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên, vu hồi, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân sản phẩm của cá nhân;

  1. Làm, cung cấp, đăng tài, chia sẽ thông tin thiết bị, gây hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc”.

Với quy định sẽ giải quyết vấn đề về chế độ xử lý để đăng tải giả trên mạng xã hội phù hợp với chất vi phạm trong Luật An ninh mạng năm 2018. Bên cạnh đó, quy định trên cũng hoàn thiện chế độ xử lý theo hướng chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi “làm” tin giả gây hoang mang trong Nhân dân, xuyên sét, xúc phạm uy tín của cá nhân, tổ chức. Hành vi “làm” đã có đủ chế độ tài chính, mức độ nguy hiểm của hành vi vi là từ dân sự nếu xảy ra tổn hại, hành động chính và hình sự nếu đủ điều kiện cấu hình thành tội phạm. Chế độ dân sự cũng không còn bất ổn trong cơ sở xác định cơ sở của luật hành động trái pháp luật trong các cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Hai là, quy định các hành vi vi phạm với tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội. trong Luật An ninh mạng năm 2018. Tuy nhiên, Luật An ninh mạng năm 2018 không định nghĩa về công việc xử lý vi “chủ động lưu trữ” tin giả đối với tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội nhưng hành vi này thực hiện lại quá trình xử lý chính, màn hình. Bên cạnh đó, Luật An ninh mạng năm 2018 chỉ định các hành vi sử dụng mạng xã hội bị cấm mà theo khuyến nghị định quy định xử lý vi phạm hành chính thì hai chủ thể có thể sử dụng và thiết lập là khác nhau. Vì vậy, chủ thể thiết lập mạng xã hội thực chất không có vi phạm về mặt “lưu trữ” đối với tin giả theo Luật An ninh mạng năm 2018. Như vậy, cần phải bổ sung quy định để phù hợp với việc điều chỉnh nhóm đối biểu tượng này trong Luật An ninh mạng năm 2018 để thống nhất về tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật. Quy định này sẽ bao gồm các hành vi bị cấm đối với việc thiết lập mạng xã hội, văn bản luật sẽ được thống nhất từ ​​trên xuống dưới. Đó cũng là tiền đề để chế tài chính hành động có cơ sở để xác định dấu hiệu phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho “hành vi trái pháp luật”.

Ba là, quy định các danh dự mà chủ thể có thể được tổ chức trong lĩnh vực mạng xã hội phải chịu. Như đã nói, chế độ tài chính là cấp độ tài chính nặng hơn chế độ tài chính chính nhưng chủ yếu có thể là tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội cùng hành động nhưng nó chỉ được xử lý về mặt hoạt động chính. Đây là một tính năng bất lợi nhất về mức độ nguy hiểm của hành động vi. Hành vi ít nguy hiểm thì được xử lý còn hành vi nguy hiểm hơn thì không được xử lý. Cùng là hành động lưu trữ, phát tán tin giả với mục tiêu gây hoang mang trong Nhân dân nhưng với chế độ tài chính thì sẽ được xử lý còn chế độ tài chính thì không. Đây là quy định bỏ lọt tội phạm khi rõ ràng tổ chức cũng có thể thực hiện hành vi như vậy nhưng được xử lý chính xác chỉ vì cấu hình của Điều 117 chỉ áp dụng cho cá nhân tội phạm. Từ đó đề xuất sửa đổi BLHS theo quy định định hướng tội danh hoo quy định tại Điều 117 thì tổ chức thiết lập mạng xã hội xã hội cũng là một tội phạm chủ yếu nhất từ ​​đó có mức độ thống nhất trong hành vi và chủ thể bị xử lý giữa hai loại tài chính.

Kết luận

Vấn đề giả tưởng, tin sai sự thật trên mạng không gian đang trở thành mối quan hệ lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam hiện nay, bên rìa các giải pháp khoa học công nghệ để ngăn chặn việc phát tán tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng thì Việt Nam cũng đã xây dựng hệ thống pháp luật tương đối đủ để ngăn chặn ngăn chặn và xử lý tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong việc xây dựng luật tương đối bộ và đầy đủ để ngăn chặn và xử lý tin giả phải rải trên không gian mạng thì vẫn còn những giới hạn chế độ, bất chấp cần phải sửa đổi , bổ sung thêm luật hoàn thiện trong thời gian tới. Đặc biệt, chúng tôi cần phải kiểm tra các thông tin một cách phù hợp, các thông tin chính cần phải được đăng tải trước các thông tin của mạng xã hội, như vậy mới tránh được sự hiểu biết thêm và làm tăng vấn đề ho tin giả như hiện tại. Trong phạm vi của tác giả, đã xác định rõ một số vấn đề được nhận dạng về giả. Đồng thời, tác giả cũng đã phân tích hệ thống luật pháp về giả thuyết từ đó đề xuất đưa ra một số kiến ​​nghị và luật pháp hoàn thiện về vấn đề này trong thời gian tới.

—–***——

Trích dẫn nguồn:

Tạp chí TÒA ÁN NHÂN DÂN

Số 7 (kỳ I tháng 4/2023)

Từ trang 12 đến trang 22

Do PGS.TS. Phan Minh Tuyên biên soạn

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *