HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM CƯỠNG BỨC LAO ĐỘNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM CƯỠNG BỨC LAO ĐỘNG

TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY

Tóm tắt: Cưỡng bức lao động là hành vi bị nghiêm cấm trong quy định pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Xét về bản chất, đây là một trong những hình thức nô lệ thời hiện đại, gắn với việc bóc lột sức lao động của người khác dưới hình thức “lao động gán nợ”, “ép buộc trong việc làm”, “mua bán người…, gây nhiều hệ lụy xấu trong xã hội. Nhằm tạo khung pháp lý làm cơ sở cho phòng, chống tội phạm cưỡng bức lao động, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước số 29 ngày 28/6/1930 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về Lao động cưỡng bức (Công ước số 29) và Công ước số 105 ngày 25/6/1957 của ILO về Xóa bỏ lao động cưỡng bức (Công ước số 105), đồng thời ghi nhận cưỡng bức lao động là một tội phạm quy định tại Điều 279 Bộ luật Hình sự hiện hành. Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp luật hình sự trong phòng, chống tội phạm cưỡng bức lao động đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc, đòi hỏi phải sớm được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.

Từ khóa: tội phạm; cưỡng bức lao động; pháp luật hình sự.

  1. Đặt vấn đề

Theo thống kê của ILO, đến nay, trên thế giới có khoảng 49,6 triệu người bị cưỡng bức, bóc lột như một hình thức nô lệ thời hiện đại với 27,6 triệu người bị cưỡng bức lao động. Trong số đó, 17,3 triệu người bị bóc lột trong khu vực tư nhân như lao động giúp việc gia đình, ngành xây dựng và nông nghiệp; hơn 6,3 triệu nạn nhân bị bóc lột tình dục vì mục đích thương mại (chiếm 12,7%) và hơn 4 triệu người bị cưỡng bức lao động do các cơ quan nhà nước áp đặt (chiếm 8,1%). Khoảng 5,95 triệu trẻ em bị cưỡng bức lao động (chiếm 12%), trong đó hơn một nửa số trẻ em này bị bóc lột tình dục vì mục đích thương mại. Khu vực châu Á và Thái Bình Dương có số người bị cưỡng bức lao động chiếm tỷ lệ cao nhất với 15,1 triệu người, khoảng 30,44%. Trong số hơn 2,4 triệu nạn nhân của tội phạm mua bán người ở bất cứ thời điểm nào, ít nhất có 1/3 số nạn nhân bị mua bán vì mục đích kinh tế hơn là bóc lột tình dục. Ước tính tổng số lợi nhuận bất hợp pháp thu được từ hành vi cưỡng bức lao động số nạn nhân của nạn mua bán người là khoảng 32 tỷ USD mỗi năm. Ở cấp độ toàn cầu, trong khu vực tư nhân, lao động cưỡng bức tạo ra lợi nhuận bất hợp pháp lên tới 150 tỷ USD.

Để bảo đảm việc thực thi công lý, góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống lao động cưỡng bức và tội phạm cưỡng bức lao động, sau khi phê chuẩn Công ước số 29 và Công ước số 105 của ILO, Việt Nam đã nội luật hóa các Công ước này trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật từ Hiến pháp đến ban hành luật và các văn bản dưới luật. Cụ thể: Khoản 3 Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định về việc nghiêm cấm cưỡng bức lao động; Bộ luật Lao động năm 2019 ngoài việc đưa ra định nghĩa về cưỡng bức lao động tại khoản 7 Điều 3 và quy định cấm cưỡng bức lao động tại khoản 2 Điều 8, còn có nhiều quy định nhằm phòng, chống cưỡng bức lao động tại Điều 17 (quy định hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động), Điều 35 (quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động), Điều 102 (khấu trừ tiền lương), khoản 2 Điều 107 (quy định về điều kiện người lao động làm thêm giờ), Điều 124 (quy định về các hình thức xử lý kỷ luật), Điều 127 (các hành vi bị nghiêm cấm khi xử lý kỷ luật lao động); Điều 27 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ) quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hướng dẫn về chế độ lao động của người nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; khoản 3 Điều 10 Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; các điều 31, 32, 33, 34 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định cụ thể về một trong những trường hợp ngoại lệ của lao động cưỡng bức, đó là lao động của phạm nhân.

Dưới góc độ hình sự, Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành lần đầu tiên ghi nhận tội cưỡng bức lao động tại Điều 297, đồng thời cũng quy định dẫn chiếu đến tội mua bán người (điểm b khoản 1 Điều 150) và tội mua bán người dưới 16 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 151) để phòng ngừa tội cưỡng bức lao động. Bên cạnh đó, còn có một số văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Phòng, chống mua bán người năm 2012; Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 của Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ; Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự… cũng có những quy định cụ thể trong xác định nạn nhân mua bán người bị cưỡng bức lao động.

  1. Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cưỡng bức lao động

Mặc dù hiện nay các quy định của pháp luật liên quan đến tội cưỡng bức lao động tương đối đầy đủ, đã góp phần bảo đảm tính thống nhất trong tổ chức và áp dụng pháp luật phòng, chống cưỡng bức lao động nói chung, tội phạm cưỡng bức lao động nói riêng, nhưng vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc cần được làm sáng tỏ, từ đó tạo căn cứ cho các nhà làm luật nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới. Cụ thể như sau:

Một là, bất cập trong quy định về chủ thể của tội phạm cưỡng bức lao động. Theo quy định tại Điều 12, khoản 1 Điều 297 BLHS hiện hành thì chủ thể của tội cưỡng bức lao động là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn tội phạm đã núp bóng doanh nghiệp, sử dụng danh nghĩa công ty để thực hiện hành vi cưỡng bức lao động, mua bán người xuyên quốc gia (núp bóng công ty môi giới hôn nhân, môi giới nuôi con nuôi, công ty xuất khẩu lao động…) nhằm che mắt cơ quan chức năng. Theo thống kê của Bộ Công an, trong 02 năm 2022 và 2023, cơ quan chức năng của Việt Nam phối hợp với Campuchia đưa 1.583 người Việt Nam bị cưỡng bức lao động từ Campuchia về nước. Số này phần lớn bị lừa sang làm việc tại các cơ sở kinh doanh như casino robot, casino online hay các cơ sở hoạt động lừa đảo trên không gian mạng tại khu vực cửa khẩu O-Smach (giáp biên giới Thái Lan) với lời hứa hẹn “việc nhẹ, lương cao”. Nhưng trên thực tế, họ bị ép thực hiện các chỉ tiêu về số lượng tiền người tham gia đánh bạc hoặc số tiền lừa đảo trong tháng, bị quản thúc, bố trí người canh gác, không cho liên lạc về với gia đình, thậm chí bị bỏ đói, bị đánh đập… với tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Hay nhiều doanh nghiệp sử dụng lao động, để ràng buộc và cưỡng bức lao động đã sử dụng nhiều biện pháp như: giữ bản chính văn bằng, chứng chỉ, giấy tờ tùy thân của người lao động; yêu cầu người lao động đặt cọc hoặc ký quỹ một khoản tiền khi ký hợp đồng lao động. Thậm chí, khi người lao động muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì có những doanh nghiệp sử dụng những biện pháp trái pháp luật để buộc người lao động tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp trái ý muốn như: không trả sổ bảo hiểm xã hội; giữ bản chính văn bằng, chứng chỉ, giấy tờ tùy thân của người lao động… Những hành vi cưỡng bức lao động do pháp nhân thương mại thực hiện có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với cá nhân thực hiện, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có chế tài hình sự đối với pháp nhân thương mại dẫn đến tình trạng cưỡng bức lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh vẫn không được xử lý dứt điểm, gây ảnh hưởng c nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người.

Hai là, khó khăn, vướng mắc trong việc xác định dấu hiệu “thủ đoạn khác” trong tội cưỡng, bức lao động. Mặc dù hiện nay, nhiều địa phương thừa nhận và áp dụng các dấu hiệu được mô tả trong tài liệu “Các dấu hiệu nhận biết lao động cưỡng bức của Tổ chức lao động quốc tế”, bao gồm: lạm dụng tình trạng khó khăn của người lao động, lừa gạt, hạn chế đi lại, cô lập, giữ giấy tờ tùy thân, giữ tiền lương, lệ thuộc vì nợ, lạm dụng điều kiện sống và việc làm, làm thêm giờ quá quy định, tuy nhiên vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về các thủ đoạn này. Điều đó dẫn đến việc áp dụng pháp luật thiếu thống nhất tại các đơn vị, địa phương đối với từng vụ việc cụ thể. Điển hình, trong vụ việc em Vàng Mí D (14 tuổi) cùng 45 trẻ em được một công ty môi giới làm việc tại Công ty TNHH I. Các em bị ép làm việc từ 7 giờ 30 đến 22 giờ hằng ngày, được trả lương thấp, bị cấm ra khỏi cơ sở…. Đây là những biểu hiện của hành vi cưỡng bức lao động. Tuy nhiên, vì không đủ yếu tố xác định trách nhiệm hình sự nên cơ quan công an chuyển hồ sơ cho cơ quan quản lý lao động để xử phạt hành chính về hành vi sử dụng lao động trẻ em.

Bên cạnh đó, những biểu hiện cưỡng bức lao động thường hướng đến nhóm người lao động yếu thế hơn những nhóm khác như: người lao động di cư, đặc biệt là người lao động di cư bất hợp pháp; người lao động làm việc trong khu vực phi chính thức gồm những người lao động tại nhà và những người lao động ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, làm việc trong những cơ sở kinh doanh bất hợp pháp; thanh thiếu niên, lao động phổ thông, người bị hạn chế về trình độ, hiểu biết hoặc những người lao động mù chữ…. Về hành vi ép buộc làm thêm giờ đối với người lao động, có 4,46% người lao động bị ép buộc làm thêm giờ, 27,3% người lao động phải làm thêm quá 200 giờ/năm, trong đó 54,54% phải làm thêm giờ thường xuyên; 18% người lao động phải làm thêm giờ do định mức lao động quá cao… Đây là một trong những biểu hiện của hành vi cưỡng bức lao động, làm suy giảm về sức khỏe cũng như tinh thần của người lao động nhưng chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến thiếu tính đồng bộ, thống nhất trong truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ba là, thiếu sự tương thích trong quy định về chế tài hình sự giữa tội cưỡng bức lao động và tội mua bán người với tình tiết “cưỡng bức lao động” trong tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi dẫn đến việc xử lý hành vi phạm tội chưa thể hiện đầy đủ tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Xét về bản chất, hành vi mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi và cưỡng bức lao động đều là hình thức bóc lột, nô lệ thời hiện đại, xâm phạm nghiêm trọng đến các quyền con người cơ bản và có tính chất nguy hiểm cho xã hội tương đương nhau. Thậm chí, trong trường hợp hành vi mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi để cưỡng bức lao động là hành vi mang tính chất trung gian, tội phạm nguồn của tội cưỡng bức lao động. Do đó, hành vi cưỡng bức lao động đối với người bị mua bán nguy hiểm hơn so với tội mua bán người, là nguyên nhân hình thành đường dây mua bán người.

Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với tội cưỡng bức lao động lại thấp hơn so với tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi. Cụ thể: Hành vi mua bán người để cưỡng bức lao động bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm đối với người trưởng thành (điểm b khoản 1 Điều 150 BLHS năm 2015) và 07 đến 12 năm đối với người dưới 16 tuổi (điểm b khoản 2 Điều 151 BLHS năm 2015), dấu hiệu hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

Tuy nhiên, bản thân hành vi cưỡng bức lao động lại đòi hỏi phải gây ra hậu quả là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác, hoặc phải có tiền án, tiền sự về hành vi này và hình phạt là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (khoản 1 Điều 297 BLHS năm 2015) cũng chưa tương xứng với tính chất hành vi. Điều này dẫn đến khó khăn trong công tác phòng, chống tội phạm do các đối tượng tìm mọi cách che giấu tội phạm nguồn là tội mua bán người và sử dụng “thủ đoạn khác” không dẫn đến gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị cưỡng bức lao động để trốn tránh trách nhiệm hình sự.

Bốn là, quy định mức hình phạt tiền trong hình phạt chính và hình phạt bổ sung chưa bảo đảm tính nghiêm minh, phân định với hành vi vi phạm hành chính. Theo quy định của pháp luật, những hành vi bị coi là tội phạm phải có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với các vi phạm pháp luật khác, đó là mức độ “nguy hiểm đáng kể”. Điều đó đương nhiên dẫn đến hậu quả pháp lý của tội phạm cũng phải được áp dụng nghiêm khắc hơn so với các vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 297 BLHS năm 2015 thì mức hình phạt thấp nhất đối với tội cưỡng bức lao động là phạt tiền 50 triệu đồng, hình phạt này lại bằng mức chế tài hành chính thấp nhất với hành vi cưỡng bức lao động. Cụ thể, theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 28/2020/NĐ-CP, hành vi cưỡng bức lao động bị xử phạt hành chính từ 50 – 75 triệu đồng. Điều này không tạo ra mức phân hóa trách nhiệm pháp lý tương ứng với tính chất hành vi nguy hiểm cho xã hội. Bên cạnh đó, hành vi cưỡng bức lao động xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận, bóc lột sức lao động của người lao động, do đó, chế tài hình sự không đủ nghiêm khắc sẽ không tạo ra tính răn đe, ngăn chặn việc thực hiện tội phạm.

  1. Đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội cưỡng bức lao động

Trên cơ sở những khó khăn, vướng mắc trong nhận thức và áp dụng pháp luật đối với tội phạm cưỡng bức lao động, trong thời gian tới, tác giả đề xuất hoàn thiện quy định về tội phạm cưỡng bức lao động theo hướng như sau:

Một là, bổ sung chủ thể là pháp nhân thương mại đối với tội cưỡng bức lao động trong quy định tại Điều 297 BLHS năm 2015 để tránh bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tính nghiêm minh trong đấu tranh, xử lý loại tội phạm này. Đồng thời, bổ sung quy định về hình phạt tương ứng với pháp nhân thương mại theo phương án bổ sung khoản 3a vào sau khoản 3 như sau:

“3a. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng hoặc đình chi hoạt động có thời hạn từ 03 tháng đến 02 năm;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 7.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;

d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm”.

Hai là, đề xuất Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn quy định về dấu hiệu “thủ đoạn khác” trong tội cưỡng bức lao động. Căn cứ theo tinh thần Công ước về Lao động cưỡng bức năm 1930 của ILO (Công ước số 29) và những dấu hiệu về lao động cưỡng bức theo hướng dẫn của ILO, có thể hướng dẫn “thủ đoạn khác” trong tội cưỡng bức lao động theo phương án sau:

“Thủ đoạn khác quy định tại khoản 1 Điều 297 của Bộ luật Hình sự gồm: lừa đảo trong tuyển chọn lao động; xâm phạm quyền tự do đi lại của người lao động; giữ giấy tờ tùy thân hoặc tài sản có giá trị khác của người lao động; cô lập người lao động; bóc lột tình dục; vi phạm quy định về tiền lương; ép buộc người lao động làm thêm giờ quá quy định; lạm dụng tình trạng khó khăn, lệ thuộc của người lao động.

Lừa đảo trong tuyển chọn lao động là hành vi đưa ra lời hứa hẹn hoặc cố ý đưa ra thông tin sai sự thật hoặc thông tin không đầy đủ về điều kiện làm việc, mức lương, loại hình công việc, điều kiện sinh hoạt và làm việc, địa điểm làm việc… khiến người lao động tin tưởng, nhận lời làm việc, từ đó ép buộc họ làm việc trong môi trường, điều kiện không bảo đảm.

Xâm phạm quyền tự do đi lại của người lao động là hành vi kiểm soát, hạn chế việc tự do đi đến và rời khỏi nơi làm việc của người lao động; hạn chế quyền được khám bệnh của người lao động; vi phạm quy định về an toàn lao động tại những nơi làm việc độc hại.

Giữ giấy tờ tùy thân hoặc tài sản có giá trị khác của người lao động là hành vi thu giữ căn cước công dân, hộ chiếu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vàng, bạc, trang sức… của người lao động để ràng buộc, ép buộc họ tiếp tục làm việc tại nơi làm việc của người sử dụng lao động, tước bỏ quyền tự do lao động của người khác.

Cô lập người lao động là hành vi nhốt, giữ người lao động tại nơi làm việc cách xa hoặc biệt lập với khu dân cư, môi trường xã hội; hoặc tịch thu phương tiện liên lạc của người lao động, không để cho người lao động có điều kiện liên lạc, tiếp xúc với người khác; hoặc tổ chức sử dụng người lao động bất hợp pháp tại nơi làm việc bất hợp pháp hoặc không được đăng ký kinh doanh.

Bóc lột tình dục là hành vi ép buộc người lao động quan hệ tình dục với người sử dụng lao động hoặc với thành viên khác trong gia đình họ hoặc ép buộc tham gia vào hoạt động mại dâm.

Vi phạm quy định về tiền lương là hành vi của người sử dụng lao động trả lương thấp hơn so với định mức tối thiểu; chiếm đoạt tiền lương; chậm trả lương hoặc trả lương không đầy đủ theo quy định.

Ép buộc người lao động làm thêm giờ quá quy định là hành vi buộc người lao động làm việc ngoài giờ liên tục hoặc làm việc nhiều ngày ngoài thời gian được theo quy định của luật lao động hoặc theo hợp đồng lao động.

Lạm dụng tình trạng khó khăn, lệ thuộc của người lao động là hành vi lợi dụng tình trạng khó khăn của người lao động như thiếu lựa chọn về việc làm, lợi dụng sự lệ thuộc của người lao động về tiền nợ, về công việc, về nơi ở, về việc lao động để trả nợ cho người thân để áp đặt thời gian làm việc quá nhiều hoặc giữ tiền lương, chiếm đoạt tiền lương hoặc trả lương thấp hơn so với mức định mức tối thiểu.”

Ba là, nâng định mức hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong quy định về tội cưỡng bức lao động tương thích với mức hình phạt trong tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. Theo đó, bên cạnh đề xuất bổ sung khoản 3a vào Điều 297 như phân tích ở trên, tác giả đề xuất sửa đổi và cơ cấu lại Điều 297 BLHS hiện hành thành 02 tội là tội cưỡng bức lao động và tội cưỡng bức lao động đối với người dưới 18 tuổi theo phương án sau:

“Điều 297. Tội cưỡng bức lao động

  1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc người khác phải lao động thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 12 năm:

a) Có tổ chức;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thế của những người này từ 31% đến 60%;

d) Đối với 02 đến 05 người;

đ) Phạm tội 02 lần trở lên.

  1. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Đối với phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương co thể 61% trở lên;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% trở lên;

đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;

e) Đối với 06 người trở lên;

g) Tái phạm nguy hiểm.

4. Người phạm tội còn có thế bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

“Điều 297a. Tội cưỡng bức lao động đối với người dưới 18 tuổi

  1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc người dưới 18 tuổi phải lao động thì bị phạt phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Có tổ chức;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%;

d) Đối với 02 đến 05 người;

đ) Phạm tội 02 lần trở lên.

  1. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thế của những người này từ 61% trở lên;

đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;

e) Đối với 06 người trở lên;

g) Tái phạm nguy hiểm.

4. Người phạm tội còn có thế bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Đồng thời, chuyển tội cưỡng bức lao động từ Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng sang Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người để bảo đảm tính thống nhất về khách thể bảo vệ của luật hình sự cũng như thể hiện đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

Bốn là, bỏ hình phạt tiền là hình phạt chính trong tội cưỡng bức lao động để phân định với hành vi vi phạm hành chính. Đồng thời, nâng mức phạt tiền trong hình phạt bổ sung của tội này theo hướng nâng cả mức phạt tiền tối thiểu và mức phạt tiền tối đa cao hơn so với vi phạm hành chính. Theo đó, nâng mức phạt tiền trong tội cưỡng bức lao động là từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng và mức phạt tiền trong tội cưỡng bức lao động đối với người dưới 18 tuổi là từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng (như đã thể hiện tại dự thảo Điều 297 và Điều 297a nêu trên).

Kết luận

Phòng, chống cưỡng bức lao động là hoàn toàn cấp thiết trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam cũng đã có nhiều quy định điều chỉnh vấn đề này. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam theo hướng vừa phù hợp với pháp luật quốc tế, vừa bảo đảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động là việc làm cần được quan tâm thường xuyên. Bài viết đã tập trung phân tích một số khó khăn, vướng mắc của luật thực định liên quan đến quy định về tội cưỡng bức lao động, từ đó đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống tội phạm cưỡng bức lao động trong thời gian tới.

Tài liệu tham khảo

  1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
  2. Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
  3. Bộ luật Lao động năm 2019.
  4. Luật Phòng, chống mua bán người năm 2012.
  5. Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
  6. Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
  7. Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự.
  1. Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an, Báo cáo công tác năm 2022, 2023.
  1. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác Tòa án năm 2018, 2019, 2020, 2021, 2022, 2023.
  2. Đinh Lành Cao, Mai Đăng Lưu, Xóa bỏ lao động cưỡng bức theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Pháp luật và thực tiến, số 39/2019.
  3. International Labour Organization, Labour and social trends in Vietnam 2021, outlook to 2030, 2022.
  4. Phan Thị Nhật Tài, Chống lao động cưỡng bức trong pháp luật về bảo vệ quyền con người của một số quốc gia, https://khoaluat.duytan.edu.vn/goc-hoc-tap/chong-lao-dong-cuong-buc-trong-phap-luat-ve-bao-ve-quyen-con-nguoi-cua-mot-so-quoc-gia/, truy cập ngày 11/4/2024.
  1. ILO, Các dấu hiệu nhận biết lao động cưỡng bức của Tổ chức lao động quốc tế, Chương trình Hành động đặc biệt Phòng, chống lao động cưỡng bức.
  2. Vụ bóc lột sức lao động trẻ chưa thành niên: Trắng trợn hành vi làm giả giấy tờ, https:/laodongcongdoan.vn/vu-boc-lot-suc-lao-dong-tre-chua-thanh-nien-trang-tron-hanh-vi-lam-gia-giay-to-101636.html, truy cập ngày 03/5/2024.
  3. Văn Linh, Hoàn thiện quy định về tội “Cưỡng bức lao động” theo Điều 297 BLHS 2015, https://svn.vn/hoan-thien-quy-dinh-ve-toi-cuong-buc-lao-dong-theo-dieu-297-bo-luat-hinh-su-20151650036106.html, truy cập ngày 12/4/2024.

—–***——

Trích từ nguồn:

Tạp chí TÒA ÁN NHÂN DÂN

Số 11 (Kỳ I tháng 6 năm 2024)

Từ trang 20 đến trang 28

Do TS. Nguyễn Thanh Thùy biên soạn

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *